ĐÀ NẴNG - Ván Cờ Trên Đỉnh Sơn Trà
Trần Văn Sanh
Từ căn hộ của đứa em trai nhìn thẳng ra phía trước là cù lao Chàm, bên phải là thành phố Đà Nẵng, xa hơn độ 35 km nữa là phố cổ Hội-An. Bên trái là bán đảo lấy tên của dẫy núi Sơn Trà, dưới chân núi có chùa Linh Ứng với tượng Phật thật lớn, nhìn từ xa nhiều cây số cũng thấy.
Tôi đến đây là lần thứ ba, nghĩ bụng thể nào cũng phải làm một chuyến leo lên đỉnh núi cao ấy, để nhìn xuống thấy quang cảnh của thành phố dưới chân và cái mênh mông rộng của biển cả. Lynh, cô em dâu mới hôm trước rủ đi phượt hai ngày một đêm - cưỡi xe gắn máy làm một vòng tam giác, Đà-Nẵng, Tam-Kỳ, Hội-An rồi về lại Đà-Nẵng - con nhỏ cũng tuổi TỴ, thua tôi 2 con giáp, chắc tưởng tôi sức trâu, hay còn trai tráng phông độ như chồng nó, nhưng có lẽ chính xác hơn là chắc sợ hai vợ chồng tôi ở không cũng buồn - nên rủ đi chơi cùng với bà dì, lấy xe chạy leo lên núi Sơn Trà. Tuy cũng vẫn còn chút thấm mệt, nhưng có người tình nguyện hướng dẫn, thế là tôi vác 2 cái máy ảnh, chai nước đeo trên người leo lên con chiến mã Honda được bà dì của Lynh cho mượn. Chiếc này có mã lực 125cc dư sức chở 2 vợ chồng tôi leo núi, không phải chiếc Honda Wave chỉ 100cc hôm lái trước đi xa - mà phải là xe tay số nghe! vì khi lên dốc cao, xe tay số còn gài trả lại số #1 hoặc #2 cho máy kéo mạnh hơn; chứ xe tay ga khi leo núi mà mất trớn thì nhiều khi phải ỳ ạch, vừa rồ ga vừa quờ chân đẩy. Lynh sinh trưởng ra ở đây, và từng đi chơi với thằng em tôi đôi ba bận nên rất rành đường và hiểu rõ những đường cua, con dốc gần như thẳng đứng. Leo lên đỉnh rồi, đứng nhìn xuống con đường mình vừa vượt qua mới thấy ớn!
Một phần ba đoạn đường lên đỉnh núi.
Trên đường lên núi, rẽ qua một con đường đưa đến cây cổ thụ, đặt tên là Cây đa Sơn Trà, có trên 800 năm, thuộc loại Banyan-trea, họ Dâu Tằm - cao 22 mét, chu vi 85 mét. Nhìn những cây mọc xung quanh ai cũng dễ tưởng lầm đó là những thân cây mọc riêng biệt, nhưng thực ra, đó chính là những nhánh của cây đa mọc chỉa thẳng từ trên cành xuống, đâm chồi để bám rễ và bao quanh, che chở cho cây cổ thụ này được đứng vững trên núi cao, gió bão bao trăm năm nay.
Đứng trên đỉnh cao của ngọn núi, nhìn phía dưới bên trái là biển Đông, phía bên phải đi vòng theo dẫy núi Sơn Trà là phía bờ biển đi về hướng đèo Hải-Vân, sau lưng rặng núi đó là vịnh Lăng Cô. Ở đây tôi có thể nhìn thấy khu cao ốc mình đang ở và cây cầu Thuận Phước - một trong 7 cây cầu lớn nhất của Đà-Nẵng.
Đà Nẵng nhìn từ đỉnh núi Sơn Trà Nơi trai gái thề non hẹn biển Trên đỉnh cao nhất có hai tháp đài truyền tin, thuộc về khu quân sự có từ trước 1975 do quân đội Hoa Kỳ kiến thiết, cho nên thường dân và du khách không được vào, nhưng cách đó vài trăm mét cũng có nơi cho mọi người dừng chân để tham quan và ngắm cảnh hùng vĩ của thiên nhiên nằm bên dưới. Ở đây, người ta khắc lên một tảng đá lớn, biến nó thành bàn cờ tướng rồi đặt một tượng đá như đang ngồi chơi cờ, đặt tên đỉnh này là Đỉnh Bàn Cờ, ai lên đây cũng đều như phải ngứa tay chụp vài tấm để làm "kỹ nghệ". Tôi cũng chả là thánh thần gì, cũng xí xọn ngồi tự chụp cho mình một tấm, rồi tức khí xổ...nho:
Chiều lên đỉnh núi chơi cờ tướng cùng người tượng đá ngồi trơ trơ còn bao quân đâu mà đem nướng quanh quẩn đời ta một ván cờ...
Hơn 42 năm về trước, tôi một lần cũng leo lên đỉnh núi Tương Kỳ ở Vũng Tầu, nhìn xuống thấy cái hùng vĩ của núi, cái mênh mông bao la của biển cả để cảm nhận ra rằng con người - và kiếp người - chẳng là nghĩa lý gì đối với cái thiên niên trường cữu của quả đất, huống chi là vũ trụ.
Tôi thấy số phận con người thật quá mong manh, nhỏ bé như hạt cát giữa biển khơi, và từ liên tưởng đến chán ngán cho cái định mệnh hầu như vô nghĩa của chính mình, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh thời bấy giờ - khi bao nhiêu bạn bè đã sớm rửa chân, leo ngồi bàn thờ trong lúc tuổi còn thanh xuân; có thằng còn chưa nếm mùi ái ân, nụ hôn đầu đời với con gái. Ngẫm lại, không chừng chính vì vậy mà tôi đã nổi máu ngông, coi đời như củ khoai, đếch còn biết sợ gì cả. Hôm nay, ngồi trên đỉnh núi Sơn Trà mà tuổi đời đã gần đất xa trời, càng thấy thân phận con người thêm bé nhỏ, hư vô. Tôi nhớ bài Phúc Âm, ngày nào của TCS - khi còn lang bạt ở Đà Lạt - sống một mình càng làm thêm suy tư sâu sắc về cuộc đời, về phận người: "Còn bao lâu cho thân tôi lưu đầy chốn đây, còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này, còn bao lâu cho mây đen tan trên hồn người còn bao lâu, anh xa tôi cho tôi xa anh... ", và mãi về sau, tôi mới tìm ra được một quan niệm sống mới, coi như cái sinh mạng của mình trước đó đã qua rồi, đã bị ông trời "chiếu tướng", từ bấy giờ trở đi tự coi mình như có một kiếp người mới, ván cờ mới - tha hồ mà đem quân (đời mình) như ván cờ chơi tay đôi với ông trời. Ông trời hôm nay đâu không thấy, chỉ thấy lão tượng đá trơ trơ như đang nheo mắt cười trêu mình.
Chả biết ai là người có cái sáng kiến dựng lên bàn cờ và tượng đá ở nơi này, vừa tinh nghịch vừa có ý nghĩa thâm thúy, không chừng chắc tư tưởng cũng ngông như cỡ tôi là cùng.
Chiều dần xuống, bóng tối bao phủ dần thành phố Đà Nẵng ở phía dưới. Khi tới bãi biển Mân Thái, cách căn hộ đang ở chừng 10 phút đi bộ, mọi người ghé tạt vào quán nước mía cạnh bãi, kéo ghế gọi một ly ngồi uống cho đã khát và nhìn lại tượng Phật Linh Ứng sáng chói dưới ánh đèn từ đàng xa và ngọn núi Sơn Trà vừa từ trên xuống. Trong đầu tôi vẫn còn lẫn quẩn về cái bàn cờ bằng đá trên ngọn núi, nó dường như trùng hợp, biểu tượng cho những gì đang xẩy ra trên chiến trường tiền tệ và kinh tế trên thế giới. Bàn cờ hai bên quân chỉ còn vài con, đều kẹt vào chung thế bí - chẳng còn bao nhiêu để đem quân thí, và chẳng biết rằng bên nào sẽ được đi bước kế tiếp. Đây là ván cờ quốc tế giữa Ngân Hàng Trung Ương của Hoa-Kỳ (cũng như Âu Châu) đang đương đầu với Trung Quốc. Không biết rằng lãnh đạo Trung Quốc đã có cái tầm nhìn xa, hay giới lãnh đạo tài phiệt của phương Tây đang giăng cái bẫy để đưa cả thế giới vào tròng. Ai đúng ai sai, một sự thật sẽ đương nhiên phải xẩy ra: "trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết", muốn còn chút hy vọng để sống, ruồi muỗi - như đại đa số quần chúng đang sống trong ảo tưởng, chẳng biết đâu là sự thật hay dám nhìn thẳng vào sự thật - phải nên biết tránh xa khỏi tầm ảnh hưởng cuộc cuộc chiến. Điều này đòi hỏi sức mạnh của lý trí, tuyệt đối trước khi đem tình cảm lồng vào trong quyết định. Ít ai biết rằng người có sách bán chạy nhất - dĩ nhiên sau quyển Kinh Thánh - từ thế kỷ 1900 đến nay có lẽ chẳng ai bằng người đàn bà nổi tiếng thông minh có một không hai: Ayn Rand (Ayn Rand and the Prophecy of Atlas Shrugged 2011). Những gì người ta cho rằng bà này đã "tiên đoán" đã xẩy ra đúng như lời bà này đã tuyên bố, đã viết thành sách. Tôi đóng ngoặc hai chữ "tiên đoán" vì chẳng có gì để gọi là tiên đoán khi sự việc đã xuất hiện và theo định luật thiên nhiên áp dụng, thì tất nhiên nó PHẢI xẩy đến; thí dụ như một toa xe lửa không thắng, không người điều khiển đang lao đầu xuống con đường đèo. Kết quả như thế nào chẳng gì gọi là "tiên đoán" cả. Ít người hiểu rõ điều sâu sắc của Ayn Rand nói lên trong phương diện "từ thiện", "bình quyền" - điều mà chính trị gia thường ngụy biện, lừa gạt dùng để cai trị, điều khiển đại đa số dân chúng.
Bài học này đã được minh chứng qua sự kiện lịch sử 30/04/75 mà người Mỹ nói riêng và cả khối Âu Châu nói chung vẫn chưa sáng mắt. Ngay chính Chúa Jesus đã từng bảo ngài đến với con người không phải để "xóa đói giảm nghèo" - cái mà sẽ đeo đuổi con người cho đến khi có một nhân loại mới, hay ngày tận thế. Con người được sáng tạo ra bởi thượng-đế, để giống như thượng-đế; nghĩa là ai cũng có cái bản năng và cái quyền nghĩ mình "toàn hảo, toàn năng" như thượng-đế. Chỉ khác một điều là đời người thì giới hạn chỉ trên dưới 100 năm,và từ đó mà sức mạnh & khả năng cũng giới hạn, chỉ có giới chính trị gia (hay vua chúa) mới tự cho rằng họ có cái quyền năng ấy. Họ nghĩ sao thì kệ họ, khổ một điều là số đông kẻ ngu đần đã tin tưởng và giao quyền cho đám cai trị này.
Đấy mới thật sự là vấn nạn của kiếp người.
SVT 04 Tháng 9, 2015
Về đầu trangĐÀ NẴNG - Về Thăm Tam-Kỳ & Hội-An
Trần Văn Sanh
Sau hơn một tuần ở Sàigòn, đáng lẽ hai vợ chồng tôi đã tính đi Đà-Nẵng từ sớm, nhưng vì Lou sau hơn 7 năm sống ở Việt-Nam, cu cậu nhớ mấy món Hamburger, French Fries, Pizza...cho nên quyết định quay trở về lại Mỹ một thời gian. Gọi là "cu cậu" vì là đứa em út, kém tôi cả chục tuổi - cho dù già đến cỡ nào đi chăng nữa, như hắn năm nay đã 50 - vẫn mãi là cậu út - mà tôi là anh trai cả, cho nên ở lại Sàigòn thêm mấy ngày để hai anh em có dịp đi chơi gần nhau hơn, trước ngày hắn tự một mình ra phi trường bay về.
Chuyến về Đà-Nẵng lần này, vợ chồng tôi tháp tùng cô em dâu tên Lynh - vợ của Lou, coi như là đi chào bà con, thân thuộc trước ngày Lynh sẽ sang đoàn tụ với chồng là đứa em trai út của tôi. Hai anh chị mới xa nhau chưa tới đôi ba ngày mà chít chát nhau tơi tả; ngay cả lúc đi chơi, vào quán - món ăn vừa đem dọn ra bàn đã thấy Lynh lôi cái iPhone, chụp và gởi hình ngay cho Lou để gọi là "chọc kít ra ngửi", cho chàng thèm chơi.
(con đường cũ vào làng - năm 2012 - trước khi đến đoạn đường rầy xe lửa ) Con đường mới vào làng Sáng thứ Bẩy dậy muộn, bởi vì lúc ra khỏi căn hộ thì cũng hơn 7:30 - lái xe đến nhà ông bà ngoại Lynh để đón dì Nguyệt chở về quê thị xã Tam-Kỳ, cách Đà-Nẵng 74 cây số, đã được nâng cấp lên là thành phố - nghe cũng oai ra phết, mà cũng đúng thôi, con đường vào làng ba năm trước, hai bên mọc dầy đặc những bụi tre, dầy đến nỗi khi trời vẫn còn chạng vạng tối mà con đường vào làng đã tối đen như mực, phải dùng, đèn pin để xoi đường đi vào nhà.
Sau gần ba năm, con đường làng nay đã biến mất, thay vào đó là con đường tráng xi măng rộng gấp 5, 6 lần, chung quy cũng chỉ vì khu này đã được cấp trở thành khu công nghiệp, cho nên người ta phong tỏa, mở đường để chuẩn bị phát triển cho tương lai. Nhờ vậy, thay vì từ đường cái đi vào quẹo phải mất them vài chục mét, bây giờ mọi người chỉ việc rẽ phải vài bước, rồi lái xe chạy thẳng vào nhà.
một con ngựa sắt, một ba lô dù đường bằng phẳng, hay nhấp nhô bình xăng đời còn ta cứ cưỡi mai sau cũng chỉ một nấm mồ...
SVT Nói về chuyện lái xe, ba năm trước mẹ của Lynh thuê chiếc xe hơi 7 chỗ chở mọi người vào Tam-Kỳ. Năm nay tôi với Lynh, mỗi người cưỡi một chiếc gắn máy, tôi chở Thúy-Hoa và Lynh chở dì Nguyệt về thăm làng. Chiếc Honda Wave của dì Nguyệt thuộc loại lão thành nhất, dì đã mua nó hơn 16 năm về trước, nhưng con ngựa sắt già vẫn còn thật phong độ. Nghĩ cũng phục người Nhật đã sáng chế ra loại phương tiện lưu thông thật tiện, giản dị và bền bỉ, một thời đã đưa tôi vi vút vào đời của tuổi thanh niên mới lớn.
Sau khi nó đã nằm ổ không biết bao nhiêu tháng, năm - chỉ cần tôi thay nhớt rồi đổ đầy bình xăng - thế là con ngựa sắt lại được phom phom cưỡi trên 74 cây số, con đường dài từ trước đến giờ từ sau năm 1975 tôi đã từng lái. Trước đó, từ thành phố Nha-Trang tôi lái hơn 50 cây số lên Dốc Lết, nơi mà bãi biển gần như còn hoang sơ nhưng thật đẹp để tắm biển; gần hơn là Sàigòn đi Biên-Hòa chỉ hơn 35 km. Lần này về tôi mua lại chiếc xe cũ ở Sàigòn, loại 125cc - đủ để đi đường trường, dư sức chạy lên Đà Lạt; nhưng cứ mỗi 1, 2 tiếng là phải tạt vào những quán cà phê, bán nước dừa và có võng nằm nghỉ chân để giãn gân, giãn cốt - nhất là để đi vệ sinh và khỏi bị cái gọi là "ông mê" sai khi ngồi trên chiếc yên xe bị dằn lên dằn xuống trên quãng đường dài.
khuôn viên nhà 3 năm trước nhà mới đang xây Căn nhà ba năm trước được dựng lều để đãi tiệc, nay đang được xây rộng lớn hơn. Khi mọi người xuống đến nơi thì cũng đã hơn 1 giờ trưa, cho nên mọi người vừa mệt, vừa nóng, ai cũng kiếm một góc nằm hay ngồi nhắm mắt làm một giấc. Tôi tẩn mẩn đi loanh quanh, trò chuyện cũng người nhà của Lynh và những người thợ xây cất, thợ hồ, về cuộc sống của người dân trong khoảng thời gian gần đây, khi đất đai được phát triển, khai thác khiến nhiều nhà nông qua một đêm bỗng dưng trở thành tỷ phú, nhờ đất đai được lên giá; nhưng cũng có người sau đó - khi hết tiền bán đất và không biết làm gì để sinh sống - họ trở lại kiếp dân đi cầy thuê, làm thuê; chưa kể có người bỗng thừa tiền đâm thích ăn nhậu, hay thích sắm xe mới - không nhậu say bị té xe hay lái ẩu bị xe đụng sớm ngủm củ tỏi, theo chân ông bà. Thế cũng xong một kiếp người, "thà phút huy hoàng rồi chợt tắt", còn hơn là số cu ly, nhọc thân mãi cả đời. Khổ là chỉ khổ cho người còn sống, vậy mà ai cũng muốn sống dai mới quái dị không cơ chứ!
Mới hơn 4 giờ sáng mà nồi nước luộc heo gà để nhổ lông đã có sẵn.
Khi cái nắng gắt của buổi trưa coi đã qua, hơn 3 giờ chiều mọi người chia tay, từ giã khu làng quê ông bà ngoại của Lynh. Leo lên chiếc Honda lái đi ngược về Đà-Nẵng độ 25 km, đến xã Vĩnh Điền thì quẹo phải đi về hướng Hội-An. Sở dĩ tôi muốn đến đấy, tuy rằng mình đã bao nhiêu lần ghé phố cổ, nhưng lần này đúng vào dịp rằm tháng 7 - ngày rằm lớn nhất trong năm - tôi đoán chắc phố sẽ chật ních người. Quả vậy, vì quá đông người cho nên tôi chỉ đi tham quan, ngắm cảnh - bỏ bớt thì giờ để chụp hình - xem thiên hạ và du khách dạo chơi, ăn uống và mua sắm. Trong chuyến đi này, nhờ xem trên YouTube có một phim tài liệu nói về "Làng lụa Hội An" cổ truyền ở đây, tôi đưa mọi người đến tận nơi cho biết, mà theo tôi cái video phóng sự còn nói rõ, nhiều chi tiết hơn là cô hướng dẫn viên, mỏi mệt vì cái nóng của buổi trưa cuối hè.
Quán cơm gà Bà Nga - số 8 Phan Chu Trinh - Hội-An Ở Hội-An mà không vào ăn thử món cơm & gỏi gà ở quán bà NGA, số 8 đường Phan Chu Trinh, thì quả là một thiếu sót lớn, mặc dù giá tiền hơn đắt một chút. Chuyện! nơi trung tâm du lịch thì tiền thuê mặt bằng cũng đâu phải là rẻ. Sau khi gọi mỗi người một dĩa cơm và một dĩa gỏi gà to đùng để ăn chung; lúc dĩa gỏi vừa đem ra - Lynh đã chụp và gửi ngay tấm hình, kèm theo vài câu chòng ghẹo chồng mình.
Đây quả là một trào lưu của thời đại mới, đi quán ăn nhà hàng nào cũng gặp. Ai cũng có điện thoại di động - loại "thông minh" - nghĩa là ngoài nói chuyện ra, còn chụp hình, nhắn tin, lên mạng, trò chơi giải trí, xem phim ảnh, v.v...càng nhiều tiện nghi thì cách xã giao, đối xử và lòng nhẫn nại, nhường nhịn ngày càng dần rút ngắn. Người xưa muốn chứng tỏ mình có trình độ văn hóa thì họ tỏ ra với lối ăn nói, tiếp xúc xã giao và phong cách trong cuộc sống.
Giờ thì nhiều người tưởng hễ ai có cái điện thoại iPhone 6 (hay loại mới nhất), đó mới là người có "đẳng cấp" cao, biết sống!
Gỏi Gà bà Nga Ngoại ô của Hội-An, cách xa chừng 2 km - có một làng chuyên trồng rau sạch, nghĩa là hoàn toàn thiên nhiên, hay chính xác hơn, theo phương pháp cổ truyền không dùng chất phân bón hóa học, ngoại trừ những chất lấy từ thiên nhiên, có sẵn từ thú nuôi trong vườn, trong làng. Trên con đường quay trở về Đà Nẵng, tôi ghé tạt vào làng Rau sinh thái này thăm một lần cho biết. Nhiều du khách tây phương tò mò muốn biết đời sống nông dân trồng rau, bán để sống như thế nào; họ lên mạng ghi danh và đóng tiền để được quyền làm nông dân trong vài giờ. Nghĩa là khi đến đây, họ phải tập gánh nước lấy từ giếng, đem gầu đi tưới từng luống rau; rồi nhặt cỏ dại, cuốc đất sới lên trộn với phân bò, phân gà. Trưa được học cách xay gạo để làm bột, phơi bánh tráng. Học cả cách tự làm vài món ăn trưa, chiều do họ chọn.
Cực bỏ mẹ mà lại còn hồ hỡi đóng tiền, quay phim chụp hình để đem về nước khoe bạn bè, họ hàng.
Con người rõ khỉ, thật quái chiêu! dân thì mơ làm được làm vua, làm quan; ngược lại kẻ cai trị dân, giầu sang thì lại muốn một lần làm "phó thường dân" để được nếm mùi đời. Kinh thánh cũng đã đề cập về căn bệnh dở hơi này, khi thiên thần muốn xuống lấy người trần gian. Lắm lúc tôi nghĩ biết đâu! không chừng mình cũng đã từng là một thiên thần (hay ác quỷ) đang ở trển sung sướng (hay ở dưới được hành hạ kẻ khác) lại không chịu, khi không lọt xuống cõi trần để trải qua những thăng trầm, đau khổ cả thể xác lẫn tâm hồn.
Sẵn tiện nói về chuyện khùng của giống người, ngay cả những ngày còn ở Đà-Lạt, đi đến đâu cũng nghe thiên hạ bàn tán, nói về chuyện cần bán nhà, bán đất vì sắp sửa đi Mỹ (hay ngoại quốc). Ở Đà Nẵng cũng thế, cứ gặp mười người thì có hết 3, 4 người nói chuyện họ sắp đi ra nước ngoài để sống, hoặc về hưu. Trong khi đó, vì nhu cầu hồi hương, muốn một cuộc sống hưu trí ở Việt-Nam, cho nên nhiều Việt kiều đã khiến chính phủ Việt-Nam phải thay đổi chính sách và luật pháp làm sở hữu chủ bất động sản ở quê nhà. Nghĩ đi nghĩ lại, đó chẳng qua cũng chỉ là sự tuần hoàn của Âm Dương; cùng thì biến, biến tất thông. Thời đã thế, thế thời phải thế, v.v... Người nông cạn thì hay "đứng núi này trông núi nọ"; nghĩa là khi chưa thấm, chưa hiểu đến tận cùng cái hiện tại mà đã mơ ước điều xa vời, thì suốt đời cũng chỉ là "đứng núi này trông núi nọ". Tôi hy vọng mình chẳng phải là thế, vì đối với tôi - bên nào cũng như nhau, cũng vậy thôi - có điều là tôi không thích kẻ khác lớn giọng bảo "Ê! ra đứng chỗ này (hoặc chỗ nọ).". Không biết tôi đã có quyền chọn mình phải ra đời, hay tại ông bà già khi không trong giây phút "hồ hỡi" rồi 9 tháng sau lòi ra thằng con; ít ra bây giờ tôi có quyền chọn mình được đứng ở núi nào, lúc nào. Ai nghĩ sao mặc xác thiên hạ.
Bún Chà Cá bà Hờn Về đến Đà-Nẵng hơn nửa giờ lái xe, sau khi tắm rửa nghỉ ngơi chưa đầy một tiếng, tôi lại cảm thấy đói bụng. Nhớ lại thưở xa xưa, mỗi lần ra Vũng Tầu chơi cuối tuần, cứ ngửi mùi gió biển không mà bụng lúc nào cũng thấy đói, hay là tại lúc đó mình còn tuổi đang lớn?
Dù gì đi chăng nữa, hỏi nhỏ Lynh thì muốn ăn cái gì nó cũng biết; em họ, chị họ và bạn gái của nó ở đây còn cả đống - mà con gái ăn hang thì phải biết. Món bún Chà Cá bà Hờn ở hẻm 113 đường Nguyễn Chí Thanh, một tô chỉ có $25 ngàn (1 đô la 5 xu) ăn ngon và no đến lè lưỡi. Tưởng nhỏ Lynh nói chơi, quất một tô rồi mới biết bụng no căng muốn lòi kèn! Đà Nẵng còn nhiều món ngon, nhiều điều dễ thương lắm, nhưng sẽ kể sau.
SVT 09/03/2015
Về đầu trangĐÀN BÒ VÀO THÀNH PHỐ
Trần Văn Sanh
Trong lúc theo chân người bạn sang bên kia cầu Thủ Thiêm, chụp vài cảnh thành phố Saigòn đang dần chìm vào màn đêm, tôi tình cờ gặp một đàn trâu ai thả đang lang thang kiếm cỏ gặm bên bờ đường.
Nhìn chúng và cảnh vật xung quanh, tôi chạnh nghĩ tới những mảnh đời lưu lạc từ khắp thôn quê hẻo lánh đã và đang đổ dồn về thành phố để kiếm chút cơm chút cháo. Không khác chi mấy những con trâu trong hình đang tìm kiếm chút rau cỏ lẫn lộn trong đống rác gạch vụn, phế thải từ những công trường, và thôn quê đang chuyển mình thành đô thị hóa - biến cánh đồng xanh tươi khi xưa nay trở thành những con đường trải sỏi, trải nhựa - khiến những con trâu này dần dà sẽ chẳng còn chi để sống. Trong những ngày Tết sắp đến, có hơn một phần tư dân số sẽ rời bỏ Sàigòn về với gia đình, với miền quê để đón xuân; tôi so sánh họ như những đàn bò, đàn trâu không phải để phỉ báng, chê bai, nhưng chỉ muốn nói về hai cái số phận như đang đi song song với nhau mà hình ảnh bên kia là đô thị với những cao ốc, tòa nhà cao chọc trời, còn phía bên này thì hoang tàn, đổ nát đại diện cho cảnh nghèo đói, cho những thân phận rác rưởi, lưu vong xa quê nhà. Một cô bé tuổi chừng mới hơn 21 tên Vân, kể rằng quê cô ở mãi tận Bình ĐỊnh, vào Sàigon để học Đại Học rồi ra trường có việc nên ở lại để đi làm kiếm tiền. Vân bảo thỉnh thoảng nhớ nhà chỉ muốn về, nhưng bảo ở luôn thì cô lại nói không, vì cô thích cái nhộn nhịp, dễ kiếm sống của Sàgòn hơn.
Câu chuyện đẩy đưa làm tôi liên tưởng đến một người bạn, nay đã về hưu - anh đang chờ giấy tờ để được sang Mỹ, và càng sớm càng tốt, vì anh không thể ở lâu thêm giây phút nào trên cái xứ sở này.
Trong khi đó, tôi và một số những Việt kiều khác - và không kể bao nhiêu dân Châu Âu hiện đang tìm về đầu tư đất đai, nhà cửa ở Đà Lạt, Đà Nẵng và Nha Trang, vì họ muốn ở bên này - rời khỏi nơi chốn mà họ cảm thấy sẽ không còn yên ổn trong những tháng năm sắp tới. Đúng là ở bất cứ thời buổi nào, câu " cỏ bên kia đồi xanh non hơn" cũng đều có thể áp dụng được. Đàn bò ở thôn quê thì muốn lên phố, đàn bò trên phố thì lại muốn tìm về quê, mà thật ra cái nào cũng đúng cả, tùy thuộc vào cái gọi là biết thời, biết thế có vậy thôi.
Về Việt Nam tôi chỉ có hai cái thú duy nhất; một là làm những chuyện bao đồng, chuyện tào lao - chia sẻ những buồn vui, nhọc nhằn của đời người trên con đường xuyên Việt; và cái thú thứ hai đó là chụp hình, ghi nhận lại những đổi thay, cảnh đẹp của quê hương, đất nước. Hai năm trước anh bạn này cũng đã từng đưa tôi đến đây chụp những cảnh hoàng hôn trên bến Bạch Đằng, nhưng anh kể - trong một chuyến về quê ăn giỗ - tuy nhà cửa đã khóa trong khóa ngoài rất kiên cố, thế mà cũng bị trộm vào nhà dọn sạch sẽ - trong đó đau lòng nhất là cả bộ máy vi tính chứa tất cả bộ ảnh mà anh đã chụp và lưu giữ cả bao nhiêu năm trời. Mất máy thì còn thay thế được, chứ mất đi bao nhiêu hình ảnh quý giá thì quả là đau như... thiến! Bởi thế, khi rủ anh trở lại chốn cũ năm xưa, anh bạn tôi liền hứng thú nhận lời ngay.
Có lẽ đó cũng là một trong những lý do mà anh bạn tôi chỉ mong sao thoát khỏi cái quê hương xứ sở của mình càng sớm càng tốt, nhưng tôi lại nghĩ - khi cái số phải bị mất tiền, mất của hay mất mạng thì ở đâu cũng thế thôi, khó mà tránh khỏi. Cái gì đã qua, tốt nhất ta hãy để cho nó qua, chỉ lưu lại trong ta những kỷ niệm đẹp - biến nó trở thành những niềm vui xoa dịu, an ủi tâm hồn; còn bao nhiêu mất mát, lỗi lầm chỉ nên giữ lại thành những bài học để tránh cho mai sau. Đã mất tiền, mất của rồi mà lại còn chuốc thêm đau khổ, để mất trí nữa thì quả là... lỗ to!
Ước gì ta trẻ vài chục tuổi để chụp cho em ảnh để đời.
Nói để cho vui dăm ba buổi một lần cũng đủ thấy tả tơi....
Trong lúc tôi và người bạn chụp phong cảnh của thành phố Sàgon vào lúc buổi chiều tàn, tình cờ thấy một cặp tình nhân cũng đưa nhau ra đây để chụp ảnh. Nhìn họ, tôi bỗng dưng cảm thấy mình như người "tiền sử"- hóa ra cái thời thơ mộng, lãng mạn yêu đương của mình thoáng đó mà đã lùi lại hơn bốn thập niên qua. Tôi nghe vài chuyện mấy ông già thích về Việt-Nam lấy vợ thật trẻ, tuổi chỉ đáng con, cháu mà kết quả thì thường là dở khóc, dở cười - nhưng giống như biết bao nhiêu người mua vé số, ai cũng hy vọng cái tình yêu chân thật cuối cùng sẽ đến với họ. Tưởng tượng đến hình ảnh cái đám cưới chú rể là Việt kiều, mọi người sẽ chúc tụng cho cặp tân hôn câu sẽ sống hạnh phúc đến khi "răng long, tóc bạc" thường dùng. Rõ khỉ! chú rể thì tóc đã bạc nay nhuộm đen bóng hơn bọn trẻ; răng thì đã rụng, mang toàn răng giả từ khuya. Thảo nào hạnh phúc chỉ còn 7 lần 3 là 21 ngày; mà 21 ngày được ôm ấp một nàng trẻ hơn mình cả ba, bốn chục tuổi cũng đã là "phước 70 đời" rồi, tuy cái giá phải trả có khi phải hơi đắt. Thôi, cứ theo câu ca dao "Ta về ta tắm ao ta, ao nhà dù đục nhưng mà vẫn... free" là yên thân, yên chuyện.
Tôi không biết đàn trâu trong hình có bao giờ biết hay nghĩ tới bên kia sông sẽ chắc có cánh đồng cỏ non và ngon hơn không, nhưng con người vì nhờ có trí khôn...dở hơi nên thường hay tưởng tựợng và cho rằng chắn hẳn phải như thế, chừng hiểu ra tuy dù cho rằng cỏ bên kia có ngon hơn thật, nhưng cái giá phải trả - như con trâu nào dám lội qua con sông này có thể dễ bị mất mạng như chơi vì con sóng, hoặc vì những chiếc thuyền, con tầu chạy tạt ngang; và khi sang được bên kia bờ có khi lại vỡ mộng vì toàn là cỏ giả, cỏ được xịt thuốc cho xanh rờn, cho đẹp mắt chứ không phải để gặm ăn - hay những người đẹp chân dài chỉ dung để làm cảnh, trưng bầy chơi cho đẹp. Nghĩ đến chuyện người bạn đang tưởng tượng rằng - đối với anh, Việt Nam là một địa ngục - thì một kẻ như tôi, đang ở xứ thiên đàng hạ giới mà cứ thích đâm đầu muốn trở lại quê hương vào lúc tuổi già; trên cái phương diện này, con người quả chẳng khác chi là một đàn bò, đàn trâu trong cõi đời ô trọc. Thế mà trong kinh thánh có kể là nhiều thiên thần lại thích xuống thế gian để làm người, rồi lại lấy chồng, lấy vợ, đẻ con nữa chứ! Thật là quái chiêu!
Bọn mình một lũ người khùng hết Thôi tớ chiêm bao hết đời này...
SVT
Về đầu trangĐOẠN KẾT THỨ NHÌ
Trần Văn Sanh
-Em còn nhớ lần đầu tiên mình gặp nhau ở đâu không hở em?
-Chẳng bao giờ em có thể quên được cái buổi sáng mùa xuân ấy. Anh đứng trên dốc chợ trông theo em cùng ba đi nhà thờ về. Em vừa mắc cở, vừa sợ nhỡ ba vô tình bắt gặp, hiểu lầm về có nước mà chết đòn!
-Ừ nhỉ. Anh nhớ em hình như mười sáu, mười bẩy gì thì phải. Nhóc tì mà bồ bịch sớm, ăn roi mây là cái chắc. Anh đoán vậy nên chỉ đứng xa nhìn. Em biết không, hơn hai mươi năm rồi mà bây giờ anh vẫn còn có thể hình dung được cái dáng đi, nụ cười và đôi má ửng hồng của em trong cái buổi sáng hôm đó… - Làm sao không ngượng ngùng được khi thấy anh cứ đứng nhìn chăm chăm. Em cũng không ngờ anh theo em về đến nhà. Chừng vài ngày sau thằng em trai đi đâu về, dúi vội cái lá thư bảo rằng có người nhờ nó đưa dùm và trả công bằng hai phong kẹo. Thư chỉ vỏn vẹn bốn câu thơ nhưng em đoán ngay ai là tác giả.
- Anh vương vấn và tương tư có cả đến suốt hai đêm liền mới làm được bài thơ ấỵ Chắc em không biết rằng tuần lễ sau đó anh qua lại nhà em ít nhất hai, ba lần mỗi ngày?
-Không, em chả hề biết gì cả. Thành thử anh còn nhớ em rất ngạc nhiên trong cái buổi chiều chủ-nhật tuần sau đi lễ. Tưởng rằng mình tình cờ gặp lại nhau. Anh sao mà quá thể! trong nhà thờ mà cứ lầm thầm cầu nguyện bên tai người ta: lậy chúa cho con được làm quen với cô nhỏ này, nhỏ nọ… - Chồng em bây giờ có được "ngoan đạo" như anh ngày xưa? mà dịp nào em lại quen biết hắn?
- Tụi em gặp nhau ở đảo. Phong có dáng dấp cao gầy giống anh thưở trước. Cũng không phải đạo gốc. Hồi còn tán tỉnh thì rất chịu khó. Giờ thì chủ-nhật chỉ thích ở nhà coi football hơn đi nhà thờ. Nhiều khi em vẫn phải nhắc mãi.
- Đến hiện tại anh vẫn thấy chưa siêng năng đi lễ bằng thời gian mình quen nhau. Em có biết dạo ấy anh đợi chờ, đếm từng ngày để mỗi chiều chủ-nhật được sánh bước bên cạnh và quỳ gối bên em, cầu xin những điều thật nhỏ nhoi, bình thường. Thỉnh thoảng sau này nghe bài "Em hiền như ma soeur" làm anh bỗng nhớ quay quắt bao tháng ngày êm đềm trôi qua đó… *** -Kiều rất thích nghe anh hát lại bản nhạc "đưa em về dưới mưa, nói năng chi cũng thừa…". Không ngờ anh có giọng ấm ghê.
-Thôi đi nhỏ. Cứ làm như anh là ca sĩ nhà nghề không bằng. Hôm nọ nổi hứng hát bậy bạ chơi. Bây giờ xổ giọng vịt cồ, nhỏ nghe sẽ cười anh thối mũi.
-Kiều hứa sẽ không dám chế nhạo anh đâu. Tại thấy bản nhạc nghe ngộ ghê là.
-Đừng có" dụ khị" người ta cô nương ơi. Nhỏ biết không, nhiều khi anh muốn nhỏ không những hiền như ma soeur mà còn là ma soeur mãi mãi để nhỏ không thuộc về ai cả…
-Xời ơi! muốn người ta là ma soeur mà cứ cách hai, ba ngày đã nói nhớ và xin hẹn hò hồi. Này anh làm ơn cách xa ra dùm một chút, kẻo người quen họ gặp về mách khổ lắm…
-Này nhỏ, anh không hát rồi nhỏ có giận thật không?
-Thôi! ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép "ca sĩ" chưa lên nhưng sắp xuống. Lần này Kiều xí xoá cho anh đó.
-Em gái của anh mà nói như thế thì đã bị cốc đầu rồi đấỵ Riêng nhỏ thì anh…
-Anh cú đầu Kiều sẽ khóc cho mà coi!
-Không, không. Anh định nói riêng nhỏ thì anh sẽ cắn… môi nhỏ cho bõ ghét… *** - Anh Trọng, anh đang nghĩ gì thế?
- Ồ, xin lỗi em nhé. Anh bỗng dưng lại nhớ tới dăm ba mẫu chuyện cũ. Chẳng hạn như một bản nhạc ngày xưa em vẫn thường hay thích nghe anh hát.
- Em vẫn nhớ mãi bản nhạc kỷ niệm ấy. Này anh ạ, định mệnh oan nghiệt xui khiến mình gặp lại nhau anh nhỉ?
- Ừ, hôm nọ sau cái ngày đầu gặp lại em. Trên đường về anh cũng thoáng có ý nghĩ như thế. Vì nếu không hề biết cuộc đời em ra sao, hoặc sự hiện diện của em trên đất nước này. Có lẽ mãi mãi anh vẫn "nhớ" cái hình ảnh dịu dàng, thơ ngây của em ngày xưa ấy. Bây giờ, đã biết em ở đây, đã có gia đình. Dù muốn cố tránh đi chăng nữa, một lúc nào đó anh sẽ "nghĩ" về em. Giữa cái "nhớ" và cái "nghĩ" biết bao nhiêu là sự thay đổi. Anh chẳng muốn đổi thay chi cái kỷ niệm, cuộc tình ngày trước của chúng mình. Nhưng định mệnh đã xếp đặt như thế anh biết làm sao hơn.
- Có phải vì lý do đó mà anh từ chối không ở lại khách-sạn với em tối hôm trước?
- Nói ra em đừng cười nhé. Có lẽ em cho rằng anh gàn, cổ hũ, nhát gan hay cù lần… gì gì cũng được. Một phần anh nghĩ đến cái hạnh phúc của em, nhưng phải nói phần lớn là tại anh không muốn phá vỡ cái hình ảnh kỷ niệm, thần thánh của ngày xưa trong trí tưởng. Thêm vào đó anh chỉ sợ nếu mình không tránh được sự cám dỗ thì chỉ làm thêm vương vấn, khổ cho nhau nữa mà thôi.
- Anh bây giờ quả có thay đổi. Chẳng bù với ngày trước, mỗi lần gặp nhau anh tham lam hôn em muốn phát ngộp.
- Không ngờ em có trí nhớ dai thật!
- Mối tình đầu làm sao mà quên được. Em nhớ hoài lần đầu bị anh ba sạo, xí gạt người ta để hôn lén… - Nhắm mắt lại đi. Anh có món quà này rất đặc biệt cho nhỏ.
- Dịp gì mà anh cho Kiều quà vậy?
- Nhỏ thật sự không biết hả? Hôn nay là ngày kỷ niệm đúng một năm mình quen nhau mà nhỏ không nhớ, tệ thật!
- Ơ! tại anh nói bất ngờ làm đầu óc Kiều hơi lúng túng. Chứ Kiều cũng có nghĩ đến cách đây vài ngàỵ Anh này, bầy đặt chi nữa không biết.
- Mà thôi, món quà này rất ngộ. Yêu cầu nhỏ làm ơn nhắm mắt lại dùm cái nào.
- Rồi. Kiều nhắm mắt lại rồi đó, chớ có xí gạt người ta nghen.
- Nhỏ cứ yên chí lớn … - Sau này với chị ấy, anh có "ma giáo" như vậy không?
- Ý em muốn nói đến vợ anh?
- Ừ.
- Ối cha! lúc đó thì anh thành quỷ sứ rồi em ạ. Thích là cứ việc đè ra hôn bừa!
- Nhưng rồi chỉ có giận anh không?
- Hơi chút xíu thôi. Con gái mà. Được hôn thích thấy mồ. À em có thấy vợ anh có nét giống em không?
- Giống ở điểm nào? Em thấy vợ anh hiền khô… - Thật tình em không biết?
- Chắc anh muốn nói chị nhỏ con như em?
- Ngay chóc. Hồi còn quen nhau – cho cả đến bây giờ – thỉnh thoảng anh thường ghẹo là "vịt đẹt" hoài.
Cũng cái khuôn mặt bầu bĩnh ngây thơ như em ngày xưa, Có lẽ trong tiềm thức anh đã chọn sẵn mẫu người vợ như thế… - Vậy mà ngày đó anh đột ngột bỏ đi không một lời từ giã!
- Như anh đã nói với em hôm trước. Anh đâu có ngờ trước khi theo người bạn đi đánh cá đó là lần cuối cùng mình gặp nhau… "Xin chú ý. Quý khách đáp chuyến bay 246 từ Portland xuống Los Angeles vui lòng chuẩn bị trong chốc lát để lên tàu. Máy bay sẽ cất cánh…." - Hình như chuyến bay của em thì phải - Vâng. Có lẽ em cũng nên đến xếp hàng cùng mọi người.
- Chắc ông xã sẽ đón em ở phi-trường tối nay?
- Dạ, em đã gọi điện thoại dặn Phong từ tối qua.
- Anh chàng nghĩ sao khi em thường đi xa cho công việc sở như vầy?
- Thoạt đầu Phong giận dỗi, phản đối um xùm. Thấy em cứ đổ lì riết rồi anh chàng cũng đành phải chiều ý. Chả bù với anh ngày xưa. Mới quen chưa chi đã cấm người ta thế này, thế nọ. Sao mà hồi đó em ngây thơ, khờ khạo thế không biết!
- Kể ra chồng em dễ dãi ghê đấy chứ. Nếu là vợ anh, có lẽ anh chả bao giờ để em rời xa đến nửa ngày.
- Gớm, anh giờ thì nói nghe hay lắm, chứ ngày xưa… - Thôi mà, biết rồi, khổ lắm… nhắc mãi.
- Không. Nói để mà nói vậy thôi! Em hiểu âu cũng là duyên số.
- Tụi anh cũng chẳng ngĩ đến chuyện hôn-nhân lúc mới quen nhau. Chỉ riêng em ngày ấy là anh nghĩ mình sẽ thành chồng vợ và sống lâu trăm tuổi. Giờ thì mỗi người một ngã, thật chẳng ngờ.
- Đã đến lúc em phải lên máy bay. Anh giữ số điện thoại và địa chỉ này, chừng có dịp rảnh xuống LA chơi nhớ gọi em anh nhé.
Người đàn ông khẽ gật đầu mỉm cười và đứng lặng nhìn cho đến khi người tình cũ đã khuất hẳn vào cái hành lang nhỏ hẹp dẫn ra con tầu. Trong lúc đợi cho chuyến bay chở người đàn bà ấy cất cánh. Hắn đến cạnh khung cửa kiếng bao quát, rộng lớn trông ra phía phi đạo. Đôi mắt xa xăm nhìn những chiếc máy bay nằm ngoan ngoãn chờ hành khách, hắn mường tượng đến những chuyến xe đò, những buổi sáng sớm tinh mơ. Ngồi một mình uống tách café trong quán nhỏ bên cạnh bến xe đò của tỉnh nhỏ. Cũng quang gánh vali. Cũng cảnh chia tay, người đi kẻ ở và thoáng chút rộn ràng, bịn rịn. Hai mươi năm sao mà trôi qua quá nhanh. Nhanh đến nỗi người tình cũ đã thay đổi đến độ hắn bàng hoàng. Ước mơ ngày xưa sau này làm một cô giáo tỉnh nhỏ, một người vợ hiền thục luôn luôn bên cạnh chồng và săn sóc con cái, nay đã trở thành một người đàn bà giao du bặt thiệp, lão luyện trên thương trường. Nàng bây giờ thuộc tuýp "người đàn bà thành công" tiêu biểu của xã-hội Mỹ. Đối với họ, vai trò gia đình và sự nghiệp đều có một giá trị tương đương, bình đẳng. Do đó, nếu có sự chọn lựa giữa công ăn việc làm và gia đình, nhất là mổi khi có chuyện bất đồng, xào xáo. Người "đàn bà thành công" ấy có thể sẵn sàng chọn lấy sự nghiệp, danh vọng trên hết. Họ lý luận không dễ gì mà đạt được cái chức vụ lẫn tài chánh, rồi buông xuôi tất cả để vất vả với đám con cái, và lệ thuộc ngửa tay sài từng đồng của người chồng. Thêm vào đó, sự ăn nằm, gần gũi trên giường đối với nàng như chuyện ăn quà vặt. Không vướng víu, không chút bận tâm. Có lẽ hay là đầu óc hắn vẩn còn quá "phong kiến, cổ hũ"! Hắn chắc lưỡi, lắc đầu không nghĩ rằng người tình cũ của hắn đã thay đổi đến như vậy. Tuy nhiên, hắn vẫn thất vọng vì bao nhiêu mộng tưởng đẹp bấy lâu về nàng bỗng vỡ tan, xoá nhoà như bọt nước trên sóng biển. Đợi cho chuyến bay cất cánh khỏi phi đạo, người đàn ông ấy xé vụn tấm danh thiếp, vất bỏ vào cái gạt tàn thuốc ở bên cạnh đoạn rảo bước ra về.
Vừa đi, người đàn ông vừa hối tiếc rằng giá đừng gặp lại nhau thì đoạn kết của một cuộc tình dở dang ngày trước, ít ra, nó vẫn còn nguyên vẹn cái vẻ đẹp của một cuộc tình vụng dại thửơ mới lớn. Sự tái hợp một cách ngỡ ngàng khi không đã đem lại cái đoạn kết thứ nhì thật chua xót, thừa thãi ngoài sự tưởng tượng, mơ mộng làm hắn đâm ra có cái cảm tưởng dường như sự gặp gỡ vừa rồi, chẳng qua đó chỉ là sự ngộ nhận, lầm lẫn giữa hai người lạ mặt không hơn không kém.
SVT 1989
Về đầu trangĐêm Giã Từ Phố Núi
Trần Văn Sanh
Đợi cho Mai vào hẳn trong nhà, khuất hẳn sau khung cửa kính mờ, đóng kín. Đăng mới chậm rãi quay gót, đi ngược về phía đường Minh-Mạng. Đêm xuống đêm lạnh giá. Đăng châm điếu thuốc. Chàng đút hai tay vào túi quần và hát khe khẽ để quên đi cái lạnh đang ngắm dần cơ thể, vào tâm hồn chàng. Đăng nghĩ đến con đường về căn phòng trọ của chàng ở gần Nha Địa Dư. Con đường dài mọi hôm vẫn chìm trong tăm tối, có ngôi miếu nhỏ nằm khuất ở bên đường phía cuối bờ hồ Nhưng đêm nay chàng cảm thấy nó gần gũi, không còn xa cách như con đường về Saigòn ngày mai chàng sẽ phải rời bỏ, giã từ thành phố thân yêu, đầy kỷ niệm này. Đăng ngửa mặt nhìn bầu trời để tránh một sự xúc cảm thoáng qua trong lòng. Ánh trăng xanh lạnh xoi bóng dáng chàng trên những phiến đá rêu phong của con dốc nhà làng đêm vắng không bóng người qua lại. “Thường những đêm mùa đông sáng trăng, trời lạnh như cắt da!”. Đăng nhớ lời Mai nói khi hai người bước ra khỏi cái không khí khói thuốc, ấm cúng của quán café Tùng. Đăng định choàng cho Mai cái áo trây-di của chàng, nhưng nàng đã khoát tay, bảo chiếc áo len của nàng mặc cũng đủ ấm; vả lại “Em đã quen với cái lạnh ở đây, dân ĐàLạt mà anh “. Lúc Mai nói, giọng nàng có vẻ ân cần, như sợ cho chàng chưa quen với cái khí hậu giá lạnh của vùng đồi núi. Thực tế, Đăng cũng mới ở đây, mới quen biết cái thành phố đồi thông mù sương này độ hơn vài tháng nay.
*** Lần đầu tiên tháp tùng với gia đình người bạn lên chơi vào dịp hè. Lúc xe đò dừng nghỉ ở Bảo-Lộc, Đăng đã thấy thích cái khí hậu mát mẻ, dễ chịu của vùng cao nguyên. Đến Đàlạt, trên con đường xuống đồi vào thị-xã, xe chạy chậm đi giữa hai hàng thông. Phú, người bạn của Đăng, chỉ cho chàng thấy hồ Xuân-Hương phẳng lặng, thấp thoáng sau rặng cây xanh. Đăng nghe lòng cảm xúc và mơ hồ chừng như một nỗi hạnh phúc nho nhỏ nào đó chợt đến với chàng. Giữa lúc mọi người còn đang bận rộn tháo gỡ, chuyển hàng từ trên xe xuống. Đăng đã đeo lên vai hành trang của chàng chỉ vỏn vẹn cái túi nhà binh mà người bạn đi lính cho từ năm ngoái, đứng ở một góc bến xe ngắm quanh quất.
Trong một khoảng khắc nào đó, chàng có cái cảm tưởng như kẻ vừa bôn ba, phiêu bạt bao năm nay trở về chốn cũ. Khung cảnh đồi núi và những con đường dốc lên, dốc xuống trông quen thuộc với Đăng. Như thể chàng đã gặp nó qua ước mơ, qua một giấc mộng tiền kiếp xa xưa. Giấc mộng thật hạnh phúc, dịu dàng. Với mấy ngày sống trong êm đềm, ngắn ngủi đó, Đăng thấy tâm hồn chàng thong dong, bình yên một cách tự tại.
Đời sống và cảnh vật trầm lặng quanh thành phố đồng thời cũng khơi dậy, nhấc nhở một bản năng cố hữu của chàng mà bấy lâu nay, hình ảnh những trận đánh khốc liệt, đẫm máu cùng với khuôn mặt ngơ ngác, kinh hoàng của trẻ thơ đeo sau lưng mấy bà mẹ gồng gánh, chịu đựng cúi đầu bước đi trên con đường chạy loạn, và chứng kiến những đêm ăn chơi trác táng của lũ con nhà giầu, nhưng cuộc biểu tình bạo động chốâng chính phủ ở thành phố … đã dìm đắm chàng vào trạng thái thật buồn nản, chán chường. Một tuần lễ ở Đàlạt như hồi sinh tâm hồn lãng mạn, như xoa dịu giữa những ý thức mà chàng đa mang từ lúc bắt đầu cảm nhận được sự đau khổ, bất công triền miên đem đến cho đời người quá ngắn ngủi. Sau lần ghé chơi ấy và chuyến công tác gần hai tháng ở miền Trung. Đăng xin được thuyên chuyển về Đàlạt. Ở đó, có một điều gì như lôi cuốn, kêu gọi chàng mãi không rời. Cái thị-xã nhỏ xíu “đi dăm phút, đã về chốn cũ” vẩn lẩn quẩn trong tâm trí Đăng từ cái hôm chàng từ giã nó. Người trưởng phòng nhân viên già quen thuộc của Việt-Tấn-Xã đã nheo mắt, tinh nghịch trêu:
- Tôi đã bảo cậu mà! Đàlạt đi dễ khó về. Chắc lại mết một em cao nguyên má đỏ môi hồng chứ gì?
- Cũng mong được may mắn như thế đấy bác ạ. Tôi định ở chơi thử thời gian xem có thích hay không thế thôi.
Đăng trả lời một cách ừ ào. Chàng vẫn mơ hồ chưa hiểu tại sao chàng muốn trở lại cái thành phố cao nguyên mù sương đó. Vì thực ra, nó cũng chẳng khác gì cho lắm cái thị- xã Pleiku, Ban Mê Thuột mà chàng đã mới ghé qua. Đăng tưởng tượng và ví mùi gỗ ngo cùng với tiếng thông reo giữa khuya như hương thơm, tiếng hát huyền hoặc của mấy nàng mỹ-ngư quyến rũ những chàng thủy-thủ hải hồ. Đăng chưa bao giờ cảm thấy chàng có vẻ bồn chồn, mong đợi để được quay về với Đàlạt đến như vậy. Chàng từng lê bước qua bao địa danh từ Nam ra Trung. Đã tạm cư đôi ba lần ở một vài thị-trấn lớn nhỏ vùng đồng bằng, đồi núi. Nhất là trong những năm gần đây, khi tình hình chính-trị lẫn quân sự bỗng trở nên sôi động, đòi hỏi chàng phải di dịch nhiều hơn. Mỗi nơi Đăng thấy đều mang đến sự hiểu biết và cảm xúc khác nhau về quê-hương của chàng. Nhưng có một điều vẫn ám ảnh, khiến chàng đau lòng là chiến tranh, bom đạn khắp nơi đã làm cho đất nước mỗi ngày thêm tang thương, điêu tàn. Đăng thương cái hình ảnh mộc mạc của người dân quê cần cù, hiền lành bên đồng ruộng xanh. Của những bà mẹ gồng gánh bán rong, yên phận, chịu đựng; chỉ mong sao ngày đủ hai bữa, nuôi đàn con dại mà có thể cha, anh chúng nó đã gục ngã, hoặc đang dầm mưa, dãi nắng trên những chiến hào, lô cốt. Đăng tự nhủ, có lẽ một tuần lễ ở Đàlạt đã giúp chàng quên đi phần nào những gì đã khơi động sự đau khổ nào đó từ tiềm thức. Đăng không nghĩ rằng chàng có ý định chạy trốn sự thật.Chàng chỉ muốn dành một thời gian yên tĩnh để tìm hiểu ý nghĩa sự hiện diện của chàng, để chọn lựa một hướng đi cho cuộc đời mình. Chàng cũng đã thấy mỏi mệt với những ngày lang thang, bất định trong nhiệm vụ của một phóng-viên nhiếp ảnh.
Đăng mong muốn tìm một nơi nào cho tâm hồn chàng ngơi nghỉ, và qua lần lãng du ngẫu nhiên ở Đàlạt. Đăng đã tìm được chốn gọi là “lý tưởng” để chàng được trở về với chính con người của chàng. Mặc dù đó chỉ là những tháng ngày trôi qua ngắn ngủi.
*** Buổi sáng tháng mười của mùa thu, Đăng có thói quen là dậy thật sớm. Khi nắng chưa lên và sương mù còn phủ kín đường phố. Chàng cảm thấy thích thú ngồi cuộn mình trong chăn, đốt điếu thuốc lá đầu tiên của một ngày, nhìn ra khung cửa sổ mở toang cho cái không khí trong lành của buổi ban mai lùa vào phòng, để thấy cả một thung lũng ở phía dưới, thấp thoáng những mái nhà và ngọn thông xanh ẩn hiện trong màn sương còn dầy đặc, mờ ảo. Đăng thường ngồi như thế cả giờ đồng hồ. Chàng để mặc cho tư tưởng mình phiêu lưư một cách phóng khoáng, lãng đãng. Hoặc có lúc chàng ôm cây đàn khẽ hát nghêu ngao, chờ cho đến khi nắng lên, sương mai đã bắt đầu tan loãng, và những tà áo dài, áo len ôm cặp xuất hiện đi dưới con đường loanh quanh dẫn đến ngôi trường trung-học nằm ngoan ngoãn ngang giữa chừng dốc. Lúc đó Đăng mới chỗi dậy, sửa soạn thay áo quần để ra phố ăn chút quà sáng trước khi ghé sở. Nhưng hôm nay thứ bẩy ngày nghỉ, Đăng dậy muộn, chàng nằm nướng chưa muốn chui vội ra khỏi chăn. Gói thuốc lá trên bàn như mời mọc chàng từ nẫy giờ mà Đăng còn lười biếng không buồn vói tay với lấy. Đang nằm suy nghĩ, xếp đặt chương trình cho cả một cuối tuần nhàn rỗi. Chàng chợt nghe tiếng chân bước nhẹ lên cầu thang. Một chập sau, giọng của người chủ nhà ngập ngừng gọi qua khe cửa, như sợ chàng còn đương ngủ chưa thức giấc:
- Cậu Đăng ơi, cậu dậy chưa? Có ai đến kiếm cậu đang chờ ở dưới nhà, cậu muốn gặp người ta không?
Đăng ngồi nhỏm dậy, hơi ngạc nhiên. Chàng bảo người chủ nhà là chàng sẽ xuống trong chốc lát. Vừa thay vội áo quần, chàng thắc mắc không hiểu ai là đến kiếm chàng giờ này.
Đăng nhớ người bạn đồng nghiệp của chàng đã xuống Gia-Kiệm thăm gia đình từ hôm qua. Hắn không thể nào quay trở lại một cách nhanh chóng như vậy. Chàng cũng chưa quen biết một ai. Ngoại trừ một người. Mặc dù đã đoán từ trước, chàng vẫn không khỏi bỡ ngỡ khi thấy Mai đang khoanh tay đứng chờ giữa phòng khách:
- Anh ngạc nhiên không ngờ rằng Mai biết anh ở đây phải không?
Mai reo lên khi vừa thấy Đăng. Sự hiện diện của chàng ở Đàlạt mà đã không ghé thăm, không cho nàng hay khiến giọng của Mai như nửa vui mừng, nửa như hờn trách.
Đôi mắt long lanh và vẻ nhìn của nàng làm Đăng bối rối. Chàng nói chuyện qua loa và cố ý né tránh trả lời câu hỏi của nàng. Sau đó bảo Mai đợi một chốc cho chàng xỏ vội đôi giầy. Đoạn hai người đi bộ ra con đường dẫn lên đồi ở phía sau nhà. Con đường đầy hoa Cúc Quỳ, những nụ hoa vàng lộng lẫy rộ nở hai bên lề cỏ dại, dưới ánh nắng dịu lạnh của ban mai khiến con đường trở nên tươi mát, trong sáng. Lúc ra khỏi nhà, Đăng ngập ngừng không biết có nên nói lý do sự trở lại của chàng. Nhưng nhìn dáng gầy yếu và vẻ mặt đang tươi vui, rạng rỡ của Mai. Chàng đổi ý và lên tiếng để tạo cho bầu không khí tự nhiên, cởi mở:
- Tôi cũng phục Mai thật. Làm sao mà biết tôi lên và ở đây hở?
Mai vén sơ mái tóc loà xoà trước trán của nàng và mỉm cười như đắc ý:
- Mai có nhỏ bạn ở đối diện căn nhà anh thuê. Tối hôm qua ghé chơi nó khoe là khám phá một anh chàng làm nghề phóng-viên ở Sàigòn mới lên. Nghe nó tả hình dáng và hỏi người chủ nhà tên của anh. Mai nghĩ mình đoán không lầm, chờ sáng nay đánh liều đến hỏi thử. Không ngờ lại là anh thật!
Xong câu nói đó, Đăng thấy Mai có vẻ ngượng ngùng cho thái độ hơi bạo dạn của nàng.
Chàng cười nhẹ và khôi hài để Mai quên đi những ý nghĩ trong đầu nàng:
- Kể ra Đàlạt nhỏ ghê đấy chứ! Không cứ gì Mai, chả mấy chốc mà cả thành phố đều biết tôi là kẻ lạ mặt ở đây. Ai muốn trốn nợ đến lánh nạn nơi này là đời coi như bế mạc Mai nhỉ!
Mai bật cười như đồng ý với câu nói của chàng. Nàng lấy lại thái độ điềm đạm sau vài câu trò chuyện, hỏi thăm về chàng. Tuy buổi đi dạo sáng hôm ấy chỉ loanh quanh trên con đồi nhìn xuống những dẫy nhà của một trướng trung-học nằm cuối dốc. Đăng thấy vui và cảm tưởng cảnh vật ở đây như mở rộng, chào đón những bước chân xa lạ của chàng. Mỗi gốc thông, mỗi bụi hoa, ngọn cỏ đều mang lại một ý nghĩa nào đó đến với Đăng. Nhất là những cành hoa cúc trắng mọc hoang dại ở bên đường, hay đã được trồng vun sới, chăm sóc ở một vài biệt-thự quanh khu đồi. Trông có vẻ như kiêu hãnh, khoe ngầm sự trong trắng thơ dại của mình giữa những cành pensé tim tím buồn, khiến chàng có ý tưởng so sanh nó với Mai. Nàng có hơi chút “bơ đời” (danh từ riêng của nàng) và chút lãng mạn như người nữ tài tử Julie Christie trong phim Dr Zhivago, nhưng tâm hồn vẫn còn vẻ nguyên thuỷ của một người con gái chớm biết yêu. Lần đầu tiên gặp Mai, chàng nhớ vào một buổi tối trong lúc mọi người còn đang dùng cơm chiều với gia đình người cô của Phú. Nàng từ nhà kế bên qua dọn dẹp căn phòng dành riêng cho khách, để Phú và chàng ở tạm trong mấy ngày ghé chơi. Lúc Đăng trở về phòng, chàng thấy Mai đang gấp lại quyển tập thơ viết tay của chàng còn để trên bàn. Vừa thấy Đăng, nàng có vẻ thẹn nên vội vàng thu dọn đoạn nhanh chóng lui bước. Những ngày sau, Mai hướng dẫn gia đình của Phú và chàng đi chơi thăm thắng cảnh của Đàlạt. Đôi lần Đăng thấy nàng bẽn lẽn, né tránh cái nhìn của chàng mỗi khi – trong một lúc tình cờ nào đó – hai người đối diện nhau. Có lúc Đăng muốn kiếm dịp để giải thích rằng chàng đã không mang ý xấu hoặc trêu chọc nàng về vụ đọc trộm sách ấy. Nhưng thỉnh thoảng nghĩ đến cái hình ảnh lúng túng, dễ thương ấy của Mai, chàng lại tủm tỉm cười một mình. Định bụng để đến trước hôm về sẽ nói cũng chẳng muộn.
Buổi tối cuối cùng ở Đàlạt. Phú rủ chàng, Mai và cô bạn gái của nàng ra dạo phố, ăn thử ở một vài tiệm chè, rồi cùng ghé vào quán café Hạnh-Tâm gần bờ hồ để trò chuyện.
Trong lúc ở quán, Đăng thấy Mai có vẻ buồn ít nói. Không cười đùa vui vẻ như những lần đi chơi trước. Chừng như nàng đang trải qua một sự giao động nào đó ở trong lòng.
Thỉnh thoảng chàng gợi chuyện, nhưng nàng chỉ trả lời với những câu ngắn gọn. Đoạn thở nhẹ, cúi nhìn ly café đang cầm xoay xoay trên tay. Hồng-Yến, cô bạn gái của Mai, cũng cảm thấy sự thay đổi ấy của nàng đã lên tiếng nói nhỏ:
- Tao tưởng mi vẫn bơ đời, sỏi đá lắm cơ mà?
- Sỏi đá rồi cũng có lúc mòn. Sáng mai tao sẽ không còn là tao của ngày trước.
Con Mai bơ đời biết khóc rồi mày ạ!
Mai trả lời người bạn trong lúc Phú nheo mắt nhìn chàng qua khói thuốc, như ngầm hỏi chàng có hiểu câu nói của cô em họ hắn. Chàng liên tưởng đến hình ảnh nàng con gái đứng tiễn người yêu lên đường đi du học. Thằng bạn của chàng đã mua được lối thoát ra ngoại quốc. Người yêu nó biết hắn đi không hẹn ngày về. Chia ly là đứt đoạn. Cuộc tình tựa hồ như lá vàng rụng cuối thu. Đăng hy vọng rồi mùa xuân sẽ đến, Mai sẽ hiểu rằng chàng chỉ là du khách như bao người đã từng ghé đến thành phố này. Nàng sẽ quên đi những ngày hè vui thoáng qua. Đăng nghĩ sự yên lặng của chàng là điều cần thiết nên chàng không nhắc đến vụ đọc trộm tập thơ. Hãy để nó đi vào dĩ vãng, vào với kỷ-niệm.
Một kỷ-niệm riêng tư của hai người, và chàng sẽ nhớ mãi.
*** Lên đến đầu đường Minh-Mạng. Đăng dừng chân. Chàng qua nhìn con dốc một lần cuối trước khi băng ngang qua khu rạp hát Hoà-Bình, đi dọc theo những gian hàng bán đồ gỗ kỷ niệm đã đóng cửa từ lúc trời vừa xẫm tối. Ánh sáng vàng vọt yếu ớt không đủ xoi tỏ của vài ngọn đèn trên con dốc dẫn xuống bến xe đò đang đắm chìm trong đêm tối khiến cảnh vật trông buồn tênh, hiu quạnh. Chốc chốc, một chiếc xe nhà binh phóng qua vội vàng rồi biến dạng, để lại sự im lặng, tĩnh mịch của màn đêm. Đăng nhìn đồng hồ, chàng thấy đã quá giờ giới nghiêm. Chàng chưa muốn về chỗ trọ một chút nào. Đêm cuối cùng ở đây, chàng thích đi lang thang nơi phố, loanh quanh ở bờ hồ, ở một vài con đường chàng vẫn thường lui tới. Chờ cho đến khi trời sáng chàng sẽ về nhà, thu dọn hành trang rồi đón chuyến xe đò sớm nhất rời thị-xã. Đăng có cái linh cảm có lẽ đêm nay là đêm cuối cùng chàng nhìn thấy Đàlạt. Người bạn phóng-viên Hoa Kỳ, trước khi trở về nước cách đây vài tuần đã buồn rầu bảo rằng dân tộc hắn vừa quyết định cắt viện-trợ, bỏ rơi Việt Nam. Hắn nói sẽ có vụ thay đổi lãnh tụ miền Nam, và số phận dân tộc chàng sẽ ít nhiều tuỳ thuộc vào sự thay đổi đó. Ít lâu sau, Đăng được điện tín gọi về Saigòn làm việc . Sở nhắn chàng thu xếp để rời Đàlạt càng sớm càng tốt, nhưng chàng đã chần chừ, luyến tiếc cho đến ngày hôm nay. Sau khi đi chơi với Mai lần cuối cùng. Chàng vẫn chưa nói cho nàng biết sự đột ngột rời bỏ thành phố mà chàng từng ước vọng sẽ dừng chân ở lại mãi mãi. Chàng còn nhớ nét mặt vui mừng, sung sướng của Mai chừng lúc nàng nghe xong câu nói đó, hôm hai người xuống Đơn Dương chơi thăm cô bạn người Thuợng của nàng. Khi ấy chàng thấy tội nghiệp Mai biết bao. Đăng nghĩ đến những dự tính tương lai của chàng, nghĩ tới những ngày rồi đây sẽ đến với Mai. Gia đình nàng từ lâu đã hưá gả nàng cho một người bạn của gia đình sắp ra trường bác sĩ. Biết rằng nàng sẽ dỗi hờn, trách móc về sự ra đi của chàng, nhưng Đăng hy vọng thời gian sẽ làm nàng lãng quên cái quá khứ của một cuộc tình vô vọng, và chàng tin tưởng cuộc hôn nhân sẽ đem đến hạnh phúc cho Mai. Nàng sẽ cảm thấy chút gì bồi hồi, luyến tiếc mỗi lần nhớ lại thuở con gái. Ít ra nàng cũng đã có một cuộc tình êm đẹp, một thời để lãng mạn, như một bài hát không tên nào đó “đời một người con gái … đến khi lấy chồng, chỉ còn mối tình mang theo.” Ngày mai, trong những hành trang của chàng, Đăng cũng sẽ mang theo một chút đau buồn và nuối tiếc vô biên. Chàng bỗng có ý tưởng muốn tất cả vũ trụ, con người chợt tan biến vào hư không, hoặc không còn những ý thức, những cảm giác nào nữa ngoài những giác quan, bản năng của một người bị mất trí. Đăng nhớ lần chàng cùng người bạn đến thăm dưỡng-trí-viện ở Biên Hoà. Chưa kịp nói với một người đang nhẩy múa, cười vui sau những chấn song kiến cố, định hỏi đùa hắn có được sung sướng ở trong đó thì hắn đã hỏi hai người rằng ở ngoài “chuồng” lớn có vui chăng. Qua song sắt, hắn tưởng cả thế giới bên ngoài đều bị bao vây, tù hãm trong một vòng rộng lớn. Đăng nghĩ nhiều về câu nói đó và chàng công nhận là hắn được hạnh phúc hơn nhiều người, kể cả chính chàng. Bởi vì tâm hồn hắn không bị giam cầm, khổ đau về những tri thức mà mọi người vẫn tôn thờ, ca tụng. Hắn nào biết gì về cái chiến tranh tương tàn đang xẩy ra nhiều nơi trên thế giới, trên quê hương của hắn cũng chỉ vì sự hiểu biết sự khác biệt giữa hai ý thức hệ vô sản và tư bản chính con người đặt ra. Tất cả chỉ là trò hề. Một sự phi lý vô luân khôn lừơng, không máu và nước mắt nào có thể so sánh nổi.
Đêm về khuya sương xuống đầy ngọn cỏ. Đêm sáng trăng buốt giá. Đăng muốn nghĩ đến một điều gì đó để làm chàng đỡ cô đơn, để ấm lòng. Một điếu thuốc lá, một nụ hôn chẳng hạn. Thốt nhiên, Đăng nhớ là mặc dầu đã cùng Mai đi chơi bao lần. Chàng chưa hề nghĩ đến hôn lên đôi môi đầy đam mê của nàng. Cho dẫu chỉ là một lần thoảng nhẹ.
Đăng không biết rằng mai sau chàng có hối tiếc về vấn đề này. Nhưng hiện tại, nỗi cô đơn bỗng khiến chàng cảm thấy thèm một vòng tay ôm và một giấc ngủ dài quên quên.
SVT
Về đầu trangĐỂ TƯỞNG NHỚ MỘT LOÀI HOA
Trần Văn Sanh
Trong những ngày còn ở Đàlạt, nơi xứ lạnh sương mờ thường phủ kín mỗi buổi sáng và đủ loại hoa trồng, hoa mọc dại trong vườn, trên đồi, hay trên những con đường làng dốc lên dốc xuống. Ở đây, đủ các loài hoa Hồng thường được nhiều người ưa chuộng và trồng tỉa để giao bán cho tất cả các tỉnh và thị-trấn – dĩ nhiên trong đó tiêu thụ nhiều nhất vẫn là thành phố Sàigòn. Riêng tôi, loài hoa tôi thích nhất có lẽ là Cúc trắng, với những cánh hoa mầu trinh trắng bao quanh đám nhuỵ vàng mầu hoàng-gia một cách như khoe ngầm sự kiêu hãnh; và sau đó là cái mầu tím vương vất buồn nhẹ nhàng của hoa Pensé. Tôi không rõ mình đã yêu thích hoa Cúc trắng tự bao giờ, nhưng nhất định là tôi đã từng thấy nó nhiều lần trước khi tôi ghé đến Đàlạt.
Có thể, theo thuyết luân-hồi của Phật giáo, vì một nguyên do nào đó từ tiền-kiếp khiến tôi yêu mến hoa Cúc trắng cho nên đã cưu mang nó theo đến kiếp này.
Dù gì đi chăng nữa, tôi còn nhớ lần đầu tiên, trong một buổi sáng đi dạo xuống bờ hồ XuânHương, trên con đường từ nha Địa-Dư đi loanh quanh, hay lòng vòng ngang qua Tiểu-ChủngViện thánh Giusê, tôi tình cờ thấy những bụi Cúc trắng mọc dại bên đường trông thật đơn sơ, tươi tắn và xinh xắn. Dừng chân chốc lát và tò mò cúi nhìn bụi hoa; trong lúc trầm tư, vân vê từng cánh hoa mầu trắng như tuyết, tôi bỗng dưng chợt vỗ trán rồi “ah!” lên một tiếng. Nhớ ra rồi, tôi nghĩ ngay đến những ngày của tuổi mười bốn, mười lăm. Ngày tôi mới bắt đầu biết thế nào là sao xuyến, là hồi hộp, rộn ràng mỗi khi tôi gặp mặt người con gái hàng xóm lớn hơn tôi những bốn, năm tuổi và hình như đang học năm thứ nhất ở đại-học Văn-Khoa. Dĩ nhiên, đối với nàng, tôi chỉ là một cậu nhóc tì bằng tuổi thằng em thứ hai của nàng không hơn không kém (và nó cũng là bạn học cùng trường với tôi). Cho đến bây giờ, tôi vẫn chẳng hiểu nàng có một điểm gì để tôi say đắm, tôn thờ như một thần tượng ngoại trừ với khuôn mặt nàng trái soan và nụ cười hiền lành, đôn hậu thường hay nở trên môi mỗi khi gặp nàng. Oái oăm thay trong lúc đó - đứa em gái của nàng kém tôi một tuổi – lại chịu đèn tôi một cách thật là quái ác. Đứng giữa là thằng bạn, lúc bấy giờ vẫn chưa biết mô tê gì cả về ái tình. Nó còn ham bắn bi, vui với trò chơi cao bồi bắn da đỏ và thuê coi truyện Xì-trum, tay súng Lucky – thành thử nhiều khi la nhặng lên đuổi con em gái đi chỗ khác chơi khi thấy con nhỏ khoái la cà lại gần, kiếm chuyện để nói với tôi . Hình như về phương diện tình cảm trong tôi trưởng thành sớm lắm hay sao mà bố mẹ đã từng đặt cho tôi cái danh hiệu “ông cụ non” ngay từ thưở nhỏ. Cái tình cảm trưởng thành hơi sớm này càng bộc phát, thăng hoa khi tôi bắt đầu thấy lòng mình như trống vắng, thiêu thiếu điều gì nếu một ngày không được gặp mặt người con gái bên cạnh nhà ít nhất được một lần. Cũng may là tôi có thằng bạn để làm bình phong nên thỉnh thoảng thường viện cớ qua để ôn bài vở chung với nó mà lòng sự thực thì chỉ mong được nhìn thấy dung nhan của nàng – cho dù chỉ là thoáng qua - để đêm về ngủ đỡ phải bâng khuân, trằn trọc. Một hôm tình cờ lúc qua bên nhà hàng xóm kiếm thằng bạn, tôi chợt thấy nàng tư lự ngồi trước sân nhà, tay cầm cành hoa và bứt nhổ từng cánh hoa mà miệng thì thầm, lẩm nhẩm điều gì đó nghe không rõ. Thấy nàng, tôi quên khuấy mất việc đi tìm thằng bạn, làm bộ kiếm cớ ngồi xuống bên cạnh, gợi chuyện:
- Hoa đẹp thế sao chị Chi lại nỡ vặt bỏ đi vậy hở?
Tôi cóc dám gọi tên nàng trống không, vì thứ nhất sợ nàng cho rằng tôi bất lịch-sự, hoặc kém lễ phép. Điều tôi lo hơn nữa là sợ nàng khám phá ra cái tình cảm riêng tư của mình, mặc dù nhiều lần tôi từng gọi cái tên Chi trong trí óc tưởng tượng như một tình nhân đã âu yếm gọi tên người yêu một cách trìu mến. Vậy mà mỗi lần đến bên cạnh nàng, đầu óc, tay chân tôi bỗng dưng lọng cọng, thừa thãi. May mà chưa đến nỗi bị lộ tẩy.
- Đằng nào nó cũng sắp héo rồi! Chắc là Đ. chưa được nghe nói về cách dùng hoa Cúc để đoán tình cảm của người mình yêu hoặc thầm yêu? À chị quên khuấy đi là “Đ. cụ non” chỉ mới mười bốn, mười lăm thì làm sao mà biết được phải thế không?
Rồi nàng bật cười và vui vẻ giảng cho tôi nghe về cách bói đoán là mỗi cánh hoa nàng nhổ là một câu “người yêu tôi” hoặc là “người không yêu tôi” cứ thế tuần tự thay phiên nhau, đến cái cuối cùng còn lại là kết quả của sự “tiên đoán”, cho biết người mình yêu có biết hoặc yêu mình hay không.
-0- Từ buổi đó, tôi biết thế nào là Cúc trắng và đồng thời cũng biết thêm được một điều là Chi, người tôi thầm yêu đã thất tình về một chàng sinh-viên đang học cùng ngành. Tôi ngỡ ngàng và đau khổ một thời gian, cố tìm quên bằng cách vùi đầu vào đọc truyện trinh-thám Z28, tiểu- thuyết của Mai-Thảo, Nhã Ca, Doãn Quốc Sỹ, Lệ-Hằng… Dần dần, tôi tập viết thơ và thử gởi đăng trên tờ nguyệt-san của tuổi Ô-Mai, tuổi mới lớn. Đó là tờ Tuổi Ngọc do nhà văn Đinh Tiến Luyện sáng lập, và bài thơ đầu tiên tôi gởi một cách thật “rùa”, thâm tâm chẳng hy vọng gì nhiều, chỉ mong được toà soạn sửa đổi hoặc chỉ dẫn thêm. Vậy đó mà đã hơn bốn mươi năm trời trôi qua, trên bước đường phiêu bạt đến cái thị-trấn nhỏ bé đầy lãng mạn này, tôi bất chợt hồi tưởng lại một cuộc tình của thưở mới lớn nhắc nhở bởi những đoá hoa Cúc trắng mọc dại bên đường - như hôm nào mới đây tôi dừng chân trở về ghé thăm Đàlạt, nhìn những bụi Cúc trắng vô chủ mọc ở cuối ven bờ hồ Xuân Hương, tôi nhớ lại bài thơ đầu đời mình đã làm thưở tập tành biết yêu:
Đêm mơ mình hoàng-tử lạc bước gặp em yêu hái hoa rừng cầu cạnh nàng công chúa diễm kiều.
Hoa Cúc anh dệt nên aó em Vương miện anh kết bằng sao đêm trần gian trăm xứ qùy dâng tụng nữ-hoàng em bước lên ngôi trên.
SVT
Về đầu trangGiáng Sinh Xưa Và Bạn Tôi
Trần Văn Sanh
Năm đó đáng lẽ tôi đã ở lại ăn mừng lễ Giáng Sinh đầu tiên ở Đà Lạt, nhưng chiều ngày 23 tháng chạp tôi được cái điện tín báo tin thằng Hùng bị thương trong một cuộc hành quân, mới chuyển về bịnh viện quân y ở Cam Ranh. Ngày hôm sau tôi đón chuyến xe đò sớm nhất đi Nha Trang, rồi từ đó đón xe ôm đi xuống vịnh Cam Ranh.
Tôi với Hùng quen nhau từ thuở hai đứa còn học lớp đệ Tam trường Nội-Trú Đắc Lộ ở ngã ba ông Tạ. Hùng học ở đó từ năm đệ Thất, sau khi bố nó tử trận - mẹ của Hùng đem nó và đứa em gái từ Pleiku vào Sàigon, rồi gởi nó vào nội trú để thằng Hùng khỏi la cà, sa ngã ở cái thành phố nhộn nhịp mà bắt nó chỉ lo chuyện học hành, lấy ít nhất là cái bằng tú tài - hay khá hơn là đậu tú tài đôi rồi vào đại học. Có lẽ trong trường chắc chả có đứa nào thuộc loại "giở quẻ" như tôi, chẳng đứa nào muốn vào nội trú - ngay cả bán nội trú cũng lắc đầu nguầy nguậy - thằng nào cũng bị gia đình lôi cổ quăng vào đấy như muốn giam lỏng mấy tâm hồn "phóng khoáng" thích lêu bêu hơn là chăm học. Riêng tôi, sau hơn hai năm 'ăn chơi' - nói nghe ghê gớm, nhưng thật ra cũng chỉ vì chán đời đâm ra ham nhẩy đầm hơn là thích cắp sách mỗi sáng đi học - tôi bỗng dưng chán hết tất cả; nên lúc tôi ngỏ lời với bố mẹ là tôi muốn tìm một nơi yên tĩnh để tu tỉnh, chăm học lại từ đầu. Ối dào, bố tôi có lẽ là người vô cùng hồ hỡi - trong khi đó mẹ tôi là người sung sướng nhất – khi nghe tôi mở lời đề nghị này. Sau ba ngày hai bố con chạy lông bông, đi thăm những trường học nội trú quanh Sàigòn. Tôi chọn trường Đắc Lộ vì ít ra nó vừa gần nhà, vừa có vẻ phóng khoáng - không như là một trường dòng của một chủng-viện nọ ở gần Thủ Đức, nơi có kẽo gai rào xung quanh trường, trông cứ như một trại tạm giam thiếu thanh nhi!
Vậy mà sau năm đệ Tam, máu ngựa bà của tôi đùng đùng lại nổi lên, tôi ra ngoài ghi danh học lớp đệ Nhị - ở trường Văn-Học của nhà thơ kiêm hiệu trưởng, đó là nhà thơ Nguyên Sa - trường nằm ngay trên đường Phan Thanh Giản gần cổng xe lửa và bót cảnh sát quận Ba. Trong đám học sinh nội trú ở Đắc Lộ, Hùng là đứa có nhiều thâm niên nhất, kế đó là thằng Thạch, Đình, Cáp, Vinh...bọn nó thấy tôi chán kiếp sống nội trú nên cả bọn đều theo tôi bỏ trường đi theo ra học ở ngoài. Nghĩ lại, khoảng thời gian đó "gia đình" tôi chỉ có ba thằng là ngoài tôi thì Hùng và Thạch, thường đi chơi và ở chung với nhau nhiều nhất. Hùng thuê một căn gác nhỏ nhắn trong một con hẻm ở đường Lê Văn Duyệt, leo lên cái cầu thang ọp ẹp bằng gỗ là chỗ ba thằng hay kéo nhau về đó đóng đô và lăn ra ngủ sau khi đi học rồi lang thang uống cà phê cà pháo ngoài phố. Tôi còn nhớ những ngày đầu mới dọn về căn gác, thằng Hùng bảo tôi chở nó ra khu chợ cũ, kiếm mua vài cuốn Playboy tuy cũ người nhưng vẫn còn mới ta - đem về cắt dán vài tấm hình Playboy gọi là thật " ác liệt" thưở đó; ở nội trú bố bảo cũng chả đứa nào dám cả gan trưng bầy những tấm hình giật gân, nẩy lửa ấy để trêu thầy Giám Thị hay Tổng Giám Thị - để bị ăn đòn rồi có khi còn bị tống cổ ra khỏi trường là cái chắc. Vậy mà cái thằng Hùng quỷ quái này một lần không biết làm sao mà nó mở được cái tủ quần áo của thầy giám thị, rồi dán vào bên trong cánh cửa tủ áo một tấm hình thật sexy, cắt ra từ tờ Playboy rồi đóng cửa lại như cũ.
Hùng chỉ tiết lộ cho một mình tôi biết, để hai đứa âm thầm dò xem phản ứng của ông giám thị nổi tiếng là dữ dằn nhất từ xưa nay, khi ông ấy vô tình mở ra lấy áo quần thay mỗi buổi sáng trước khi dựng đầu lũ học trò dậy để đánh răng rửa mặt trước khi đi lễ buổi sáng sớm. Hai thằng bụm miệng cố dấu tiếng cười khi thấy thầy giám thị mở cánh cửa tủ ra, rồi trong giây phút đứng ngẩn người nhìn rồi vội vàng đóng xầm cánh cửa, mà có lẽ lúc đó từ phía sau lưng, tôi đoán dám mặt thầy có lẽ cũng đỏ như trái gấc! Thỉnh thoảng nghĩ lại, tôi hy vọng Chúa sẽ thương tình, tha thứ cho cái tuổi trẻ ngông cuồng, ngu dại của thằng Hùng, vì đã đem cám dỗ đến cho những kẻ đang muốn tu hành như thầy, còn tôi chắc cũng tội lỗi không kém vì đồng lõa với cái thằng bạn mắc dịch này.
Trong đám bạn, có lẽ tôi thương thằng Hùng nhất vì nó mồ côi cha và mẹ nó rất nghèo. Tuy thằng Hùng lớn hơn tôi một tuổi, nhưng không hiểu sao nó rất nể nang và coi tôi như đàn anh của nó. Hễ có dịp đi phép hay ghé tạt ngang Sàigòn, nó đều ghé nhà tôi trước khi về thăm mẹ và em gái. Quà cáp của nó từ chiến trường đem về cho tôi thì nào có mẹ gì đâu! toàn súng ống với lựu đạn nó tịch thu của những người lính vừa ở mặt trận về. Có lần thằng Hùng kể nó đem một cây AK47 về tặng thằng em họ của nó, con của một trung tá Biệt Động Quân. Ông địa ơi! cứ hễ đêm xuống là "chủ nhân" của cây AK đó về dựng đầu người trong nhà thức dậy, làm rung rinh cái tủ đựng cây súng như thể là hắn muốn đòi lại, khiến mấy người làm sợ khiếp vía, cậu của nó bắt chờ tối trời, phải mang ra cầu Trương Minh Giảng mà vứt cây AK xuống sông, từ đêm đó trở đi nhà cửa mới yên lặng trở lại. Hè năm 1972, thằng Hùng đi tháp tùng theo tiểu đoàn Quân Cảnh trong chiến dịch Phượng Hoàng lên Đà Lạt - gọi là trừ tham nhũng, nhưng thực chất là thanh lọc hàng ngũ VC nằm vùng. Thằng này có cái tánh ba gai cóc sợ ai còn hơn tôi, ban đầu làm trong ban QC Tư Pháp, nó được cấp khấu colt-45, nhưng vì có cái tật "bắn trước hỏi sau" của nó - tuy nó toàn là bắn chỉ thiên để cảnh cáo - nhưng mấy người làm chung với nó ớn quá mạng, bảo cấp trên đổi súng, cho nó mang cây m16 để bớt bắn bậy; nhưng chứng nào tật đó, thay vì dơ tay hay thổi còi vảo người ta chậm hay dừng lại soát giấy tờ, thỉnh thoảng nó vẫn "vô tư" chơi một tràng súng máy bắn chỉ thiên - bất kể trong phố hay ngoài ngoại ô - khi thấy ai có mòi như muốn phóng xe chạy. Chính vì cái tật ba gai này mà thằng Hùng vô tình đụng độ nhóm kiêu binh ĐPQ ở Đà Lạt, mệnh danh là đại đội 302 - khi nó thấy một toán lính mang dép quai râu mặc đồ đen và có người mang cả AK47 đi trên con đuờng Phan Bội Châu. Khi bị huýt còi bảo dừng lại xem giấy tờ, không biết cãi vã hay xô sát nhau như thế nào, thằng Hùng bảo thấy một QC bị đánh chẩy máu mũi, thế là một cuộc nổi súng chạm trán xẩy ra. Hôm sau, nhóm 302 tính đem quân đến vây đồn QC mà người thiếu tá đồn trưởng bảo mọi người xếp tất cả các nón QC trên cổng tường, chỉ cần bất cứ một cái mũ QC nào bị bắn rớt, thì mọi người có quyền bắn chết những tên kiêu binh này mà không bị quân luật kết án, vì họ đang thi hành chiến dịch PH và thừa hành chỉ dưới quyền TT Thiệu. Cũng may mà tỉnh trưởng NHĐ nghe tin vội vã dàn xếp với đại úy Phong, đại đội trưởng cuả nhóm 302 ĐPQ này, chứ không thì cũng một trận thư hùng xẩy ra năm đó mà ít nhiều gì cũng ảnh hưởng đến thanh thế của vị tỉnh trưởng. Qua vụ này, năm sau khi thằng Hùng nghe tin tôi lên ĐL ở - có lẽ sau vụ đụng độ năm trước, tuy rằng toán lính 302 ít khi thấy xuất hiện ở thành phố - nó vẫn dúi cho tôi khẩu colt-45 để "lận lưng" - rồi dẫn tôi ra xạ trường dợt bắn cho đến khi nào tôi bắn trúng một cái lon bia khoảng hai, ba chục mét.
Hùng còn chơi màn bịt mắt tôi, chỉ cho tôi biết tháo ráp cây súng thật thành thạo, rồi nào là cách gài bẫy bằng lựu đạn, gỡ mìn...thật tình, chưa từng một ngày mặc áo nhà binh mà tôi cứ tưởng như mình cũng đã trải qua một khóa huấn luyện binh sĩ nào đó ở Quang Trung hay Đồng Đế...
Ngày tôi xuống thăm thằng Hùng ở quân y viện Cam Ranh, một tuần sau khi nó bị thương khi đi hành quân ở Bồng Sơn, phía bắc của thành phố Qui Nhơn về. Nó rất cảm động khi thấy tôi lù lù, bất ngờ xuất hiện cạnh bên giường bệnh. Đêm giáng sinh năm đó nhờ nhiều người đã xuất viện về với gia đình, tôi được người ta cho ngủ lại cùng phòng với nó, cả đêm hai thằng kể chuyện ngày còn ở nội trú, những ngày xung phong giúp trường xây cái hang đá thật lớn mất cả mấy tháng - ban ngày đi học, chiều về là mấy tên tình nguyện làm việc lao công, chở cát, gạch, trộn xi măng, làm khung sắt...tôi với thằng Hùng luôn luôn đi đôi với nhau như hình với bóng. Trước đêm giáng sinh gần một tuần, thầy Tổng bật điện khai trương cho cái hang đá, thấy đèn đóm và vòi phun ước chạy ngon lành như ý muốn, thầy Tổng cho phép những tên làm tình nguyện được "đi phép" ra ngoài hai ngày trong ngày Giáng Sinh, tôi rủ thằng Hùng về nhà tôi ăn tiệc nửa đêm Noel, rồi hai đứa la cà khắp Sàigòn trong đêm hôm đó; thằng Hùng ứa nước mắt đưa cánh tay không bị băng bột của nó lên chùi giòng lệ. Hùng bảo trong đời nó chưa hề nhớ cái Giáng Sinh nào bằng cái Giáng Sinh năm ấy, và cái Giáng Sinh năm nay có lẽ mai sau cũng thế.
Tôi mua một xị đế và hai chai CôCa với chút ít đồ nhậu lén đưa vào phòng, hai thằng vừa nhâm nhi vừa kể lại những kỷ niệm khi còn ở nội trú, lần cả bọn gần chục mạng rủ nhau đi chơi Vũng Tầu; ngày tôi và thằng Thạch lái xe honda ra thăm nó đang trong trại huấn luyện ở Rạch Dừa...rồi hai thằng lăn quay ra ngủ lúc nào cũng chả hay.
Đầu năm 1975, Hùng lại bị thương và được về phép hơn một tuần, nó quá giang một chuyến bay về Biên Hòa, rồi từ đó chạy về Sàigòn để thăm tôi. Biết trước tình thế đất nước không thể xoay chuyển, sau tết tôi bắt nó đào ngũ và ở riết trong nhà; thỉnh thoảng mới cùng nó đi bộ ra ngoài thay đổi không khí nhưng lại phải vội về nhà, vì không biết xe sẽ đến đón đi bất cứ lúc nào. Trưa ngày 27 tháng 4, tôi đưa cho Hùng số tiền để đi mua thuốc lá, vì thằng này nghiện hút thuốc từ ngày còn học ở nội trú, tôi sợ trên chuyến đi nó thiếu thuốc cũng tội nghiệp. Hùng đi độ một lát rồi quay trở lại với một người bạn ở đơn vị cũ. Hai người ngồi nói chuyện với nhau cũng khá lâu trước khi Hùng bảo tôi nó đưa tiễn bạn đi một chốc rồi sẽ quay trở về. Lúc đó lệnh Thiết Quân Luật ban hành giới nghiêm bắt đầu đúng 7 giờ tối, ngoại trừ quân đội và cảnh sát, người dân không được phép ra khỏi nhà. Tôi còn nhớ là thằng Hùng vừa đi độ một chốc thì xe buýt đến đón, chờ nó đến gần 6:45 chiều mà vẫn không thấy bóng dáng nó đâu cả, cả nhà hối thúc mãi nên tôi đành phải lên xe ra đi; hy vọng rằng với tài tháo vát và những điều tôi thường bảo nó nếu còn ở VN thì tôi sẽ đi đâu và làm thế nào khi thời cuộc thay đổi, cộng với số tiền tôi dặn người nhà để lại, thằng Hùng sẽ biết tìm được con đường thoát và tôi sẽ gặp lại nó.
Có lẽ cái số thằng Hùng xui, đen như mõm chó. Ai đời nó ăn ở nhà tôi cả gần hai tháng, vậy mà phút chót lại không đi được! Trong lúc đó cặp vợ chồng ông anh họ, mới ngày hôm trước trở về từ Vũng Tầu mà họ đã ra đó gần cả tháng để tìm đường đi, không có nên họ đành quay về luôn tiện ghé thăm mẹ tôi, hỏi xem có biết ai tổ chức vượt biên- và anh ấy sẵn sàng chi cả trăm lượng vàng cho hai người. Mẹ tôi nghe thế bảo "Anh chị cứ đem quần áo đến đây ngay. Cô nghĩ sẽ có chỗ cho hai cháu". Tối hôm sau cả hai cùng lên tầu mà chả phải tốn một xu teng nào cả.
Ngay đến thằng Sơn học chung với tôi - nó cùng gia đình chạy giặc từ Đà Lạt xuống tuần lễ trước đó, thằng khỉ gió gửi ông bà già của nó ở nhà tôi rồi ba chân, bốn cẳng chạy đi tìm người yêu của nó mà cả đêm lẫn ngày hôm sau chả thấy tăm hơi nó đâu. Tôi rủ hai ông bà già đi cùng mà vừa đi vừa lo. May thay lúc đến đảo Wake gặp cô nàng bồ của Sơn, tôi mừng hết lớn vì biết cái thằng khỉ gió này dám đi theo gái chứ không chơi! quả nhiên gặp nó lù lù vừa xếp hàng đi ăn về, tôi giao bố mẹ của hắn mà có lẽ hai ông bà mừng rỡ vì gặp lại thằng con trời đánh này còn nhiều hơn là tôi. Sơn bảo hôm sau nó trở lại thì cả nhà tôi đã đi mất đất, vì thế nó yên chí đi theo "bảo vệ" người yêu của nó, nghĩ rằng sớm muộn gì cũng gặp nhau, ai ngờ may mắn còn hơn sự tưởng tượng. Rõ ràng con người có số mệnh, thằng Hùng nó ở nhà tôi gần hai tháng mà không đi được, trong khi cặp vợ chồng ông anh họ và ba má của thằng Sơn khơi khơi lại được đưa sang Mỹ. Tôi không ngờ đó là những giây phút cuối cùng tôi đã gặp thằng Hùng. Trong những chuyến về Việt-nam lần đầu, tôi có đi dò hỏi khắp nơi nhưng chẳng ai biết gì về tông tích của thằng bạn tên Hùng năm xưa. Giáng Sinh năm nay coi như là cái Giáng Sinh thứ 40 sau khi tôi với nó nằm chia sẻ, tâm sự với nhau thâu đêm ở quân y viện Cam Ranh. Không biết cái thằng Hùng ôn hoàng khỉ gió này còn sống hay đã khuất, tôi hy vọng rằng nó sẽ không trách một thằng bạn đã bỏ rơi nó ra đi ngày 27 tháng tư của năm 1975.
Tháng tư giặc đến đành ly-tán đứa trốn vào rừng, đứa ra khơi chiều trông ra biển sầu muôn vạn ôi oán cao xanh bỗng đổi đời.
Bài này để thương tặng mày đó Hùng "tây lai", SVT
Về đầu trangHAI CHỦ THUYẾT, MỘT KIẾP NGƯỜI
Trần Văn Sanh
Anh B. với tôi sinh ra cùng một thế hệ, tuy tôi kém anh chỉ vài tuổi, được cái là cả hai đều là người miền Bắc, trình độ học vấn cũng tương đương cho dù anh ra trường ngành YKhoa, nhưng sớm phải nhập ngũ vào quân đội, còn tôi ra trường mãi gần chục năm sau và chuyên về ngành Tin-Học. Nhờ cả hai đều có cái thú mê chụp ảnh, mà định mệnh run rủi chúng tôi quen nhau qua một trang mạng của những người nhiếp ảnh gia nghiệp dư cách đây mấy năm. Điều dị biệt giữa hai chúng tôi là anh vẫn đang ở Việt-Nam, trong khi đó tôi còn ở tận bên bờ Thái Bình Dương, xứ Hoa Kỳ mà nhiều giống dân trên thế giới đều muốn ít nhất một lần phải đặt chân đến.
Sau ngày giải phóng đất nước - một từ ngữ quá mông mênh, mơ hồ cho những kẻ thích triết lý quèn trong đủ mọi vấn đề - tôi nhờ nhát gan, nhanh chân hơn và chẳng nặng nợ tình cảm như bao nhiêu hoàn cảnh, gia đình của người khác- cho nên không cùng một số phận như anh B., vì là bác sĩ quân-y - cho dù chả bao giờ bắn ai một viên đạn, chỉ cứu chữa người bị thương tích dù là thù hay địch, nhưng anh B. phải đi cải tạo hơn hai năm rồi được cho về hành nghề bác sĩ. Sau hơn hai năm trời trao đổi hình ảnh và trò chuyện với nhau qua trang mạng, email; cuối năm 2012 tôi mới được gặp anh B. tận mặt ở Sàigòn, mà quả đúng là "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ", gặp nhau lần đầu mà tưởng chừng như đã từng biết nhau qua bao nhiêu thập niên.
Quán Piano Coffee ở SG Phải có sự hội ngộ, giữa người với người, "hai mặt một lời", con người mới dễ hiểu nhau nhiều hơn. Qua vài lần đi chụp hình chung - mà anh B. là thổ địa nên đã dẫn đường, rồi chúng tôi kéo nhau đi ăn phở, la cà uống cà phê ở quán nhạc - kể cho nhau nghe về những biến cố, những chuyện đã và đang xẩy ra trên đất nước, trên thế giới. Khi anh B thố lộ là anh đang nộp đơn xin đoàn tụ với một người con hiện đang ở Mỹ, chẳng bao lâu anh và người vợ sẽ được sang bên nơi chốn mà biết bao nhiêu người cho rằng "thiên đàng hạ giới" - nghĩa rộng hay hẹp cũng còn tùy người. Đến phiên tôi, tôi kể cho anh nghe cái ý định và kế hoạch cho tương lai của mình - chuẩn bị cho cái ngày không còn sức khỏe để làm những chuyến bay - hơn 20 giờ đồng hồ - từ Hoa Kỳ về Việt-Nam, tôi muốn có một mảnh đất nho nhỏ khiêm tốn, đủ để trồng vài bụi rau, vài cọng hành, ngò để sống an nhàn, cho qua những ngày còn lại trước ngày trở về, đứng trước "vành móng ngựa" của Thiên Chúa.
Đấy có nghĩa là, nếu anh B. có qua và được sống với con cái ở bên Mỹ - tôi với anh B. sớm muộn gì sau này cũng lại giống như hai kẻ chèo thuyền ngược chiều thêm một lần nữa; kẻ muốn sang đông, người thì sang tây.
Cuộc đời vốn ngắn và thường hay gặp những tình huống tréo cẳng ngỗng, trớ trêu như thế.
Nếu ai có một cái tầm nhìn từ cao độ 30,000 dậm từ không gian nhìn xuống, qua cái lăng kính của lịch sử, họ sẽ thấy hai cái gọi là chủ nghĩa Cộng Sản và Tư Bản, hiện nay cũng giống như hai con thuyền chèo ngược chiều - mà theo hình học, hai vòng tròn chỉ giao nhau ở hai điểm là cùng.
Cái vòng tròn tôi muốn nói ở đây đó là cái vòng tròn luẩn quẩn của đời người, của thiên nhiên và có thể lẫn cả của vũ trụ. Con người sinh ra bắt đầu là một đứa trẻ sơ sinh, rồi lớn lên trưởng thành làm người lớn, người lớn về già thì sức khỏe, vận năng trở thành yếu đuối, trí nhớ kém dần, thu hẹp lại như một đứa trẻ con không hơn không kém. Trong vạn vật cũng thế, muôn vật phải trải qua cái chu kỳ "Xuân, Hạ, Thu Đông", rộ nổ rồi tàn lụi, thân xác dần suy thoái, vữa tan để chuẩn bị vun sới, nuôi dưỡng cho cái chu kỳ sắp tới.
Cái tuần hoàn của hai chủ nghĩa thịnh hành đời này cũng chẳng chi khác lạ, mà theo Kinh Dịch, cái nào cũng thế - đó là "Cùng tất Biến" - chỉ có vậy thôi.
TP Sàigòn nhìn từ bên bến phà Thủ Thiêm Qua lăng kính của máy ảnh, tôi với anh B. có những cái nhìn, góc cạnh đẹp của ánh sáng và mầu sắc, mà đã gọi là "cái đẹp" thì dĩ nhiên còn tùy người biết thưởng thức; tùy trình độ hiểu biết để cảm nhận. Hai cái chủ nghĩa Cộng Sản và Tư Bản cũng thế, ở một góc cạnh nào đó nó đều có cái hay và cái dở, mà giống như nhiếp ảnh - chỉ cần "nhích" qua một chút, lệch hơi chút sang một bên thì tấm ảnh lại trở thành tăng giá trị, hay mất đi cái giá trị thích đáng của nó. Ngay cả đến ngôn ngữ cũng vậy, nhiều khi cùng một câu nói mà có kẻ cảm ơn và đón nhận, người khác lại tự ái - đùng đùng nổi giận, không muốn tìm hiểu sâu xa hơn. Nhiều người không nghĩ rằng những Linh Mục, Nhà sư, ma soeur, Ni Cô... đã và đang làm những việc hay công tác rất ư là "cộng sản " (hay ít ra còn gọi là "xã hội chủ nghĩa") ở khắp nơi trên thế giới mà chẳng ai ghét hay né tránh.
Nhưng nếu những vị này đứng lên cổ vổ cho cái gọi là "Cộng Sản" (hay "Tư Bản") thì bảo đảm sẽ có chuyện càm ràm, bàn cãi, chửi nhau ỏm tỏi. Thế là thế nào? Điều này có nghĩa là ngôn ngữ nhiều khi không biểu lộ được tư tưởng và tâm tư của con người một cách trung thực, mình phải biết tìm và nhìn về những góc cạnh khác mà người ta thường có câu "một tấm hình nói đủ & rõ hơn cả 1,000 chữ viết", hay "trăm voi không bằng một bát nước sáo", "lời nói thì rẻ tiền" (talk is cheap), v.v… đại khái, phải nhìn qua những việc làm, những quá trình hành động của một người - hay một tập thể - thì mới biết rõ, hiểu rõ người ta hơn.
Hồi còn ngao du ở khu phố Tây ba lô ở quận Tư, khu Đề Thám, ngay cả ở Nha-Trang, hay phố núi Đà Lạt trong những năm về trước, ít nhiều gì tôi cũng nghe vài người du khách ngoại quốc bảo "dân Mỹ cần phải tỉnh giấc", hoặc tệ và trắng trợn hơn "người Mỹ thật stupid!". Có lẽ "nhờ" bản tánh đa nghi như Tào Tháo, tôi về nghiên cứu hơn mấy năm trời, muốn biết rằng tại sao người ta lại có những thành kiến xấu, một tương lai đen tối về nước Mỹ. Tôi thấy nhiều trang mạng cũng nói về cái thiểu số "dưới 10% dân Mỹ" am hiểu những gì đã và đang xẩy ra trên đất nước họ. Tôi đọc những lời bàn như thế và coi đó chỉ là những lập luận, giả thuyết (theories) không hơn không kém và cần phải tìm kiếm những sự kiện nào để chứng minh hay phản biện lại những lập luận và giả thuyết từng đưa ra.
Trong khi đó, không ít người Việt kiều - hay người Mỹ - chưa chịu tìm tòi hay suy ngẫm - đều tỏ ra cái phản ứng tức giận, không muốn nói chuyện, bàn thảo tiếp, vì họ cho rằng người ta gán mình chung với cái đám 90% ngu xuẩn. Tôi kể câu chuyện này với anh B.
với một mục đích tương tự, như tôi đã từng bảo cho một số SV thân Cộng ngày xưa rằng cái thiên đường nào cũng có cái hay cái dở trong đó - ngay cả cái thiên đường mà trong kinh Thánh đã kể là nhiều thiên thần còn muốn xuống trần gian, lập gia đình với người trần (hay bao nhiêu chuyện thần thoại khác), và giống như câu triết lý bất hủ của người xưa "Khôn chết, dại chết, biết thì sống", mà thế nào mới gọi là "biết", mà "sống" thì nhiều lắm cũng chỉ hơn 100 năm và đã chắc gì vui, hạnh phúc mãi?
Nhiều khi tôi thấy mình giống như kẻ chèo thuyền loanh quanh cái vòng tròn luẩn quẩn của cuộc đời, có lúc tưởng mình đã tìm ra được chân lý, một lối thoát nhưng rốt cuộc lại thấy "Ủa, nó có khác gì những điều mình đã trải qua, đã biết từ trước?", rồi nhớ lại là ngay cả vua Solomon của Do Thái ngày xưa cũng đã từng phán "Not thing is new under the sun" - chả còn gì mới lạ dưới vầng ánh dương này! Bởi vậy, cho dù là hai hay nhiều chủ thuyết có khác nhau đi đến đau đi chăng nữa, "mai này mốt nọ ra đi ", tôi không biết sẽ được người ta thí cho mình một tấm chiếu hay một cái quan tài thật "hoành tráng", thật đắt tiền. Điều này tôi đếch cần phải lo toan, vì lúc đó còn biết chó gì để mà hãnh diện hay xấu hổ, có hay chăng chỉ những người còn sống, muốn che chở (hay che dấu) cái danh dự, cái sĩ diện mà họ cần phải tiếp tục bảo vệ. Thật là ảo tưởng, thật là buồn cười.
Cánh đồng trong mùa hội Tulip ở Mount Vernon - WA Tôi hy vọng là trong những tháng năm sắp tới, sẽ gặp lại anh B. ở cái thiên đường hạ giới này, ít nhất cũng được đưa anh đi chụp ảnh những nơi mà mình đã từng ghé qua và chụp được nhiều cảnh đẹp; và biết đâu sau này, tôi sẽ là tên "thổ địa" ở Việt-Nam, đón anh về chơi rồi cả hai nếu còn hơi sức, la cà đi thăm lại những chốn xưa mà chúng tôi đã từng đi qua. Kể ra, một kiếp người quả là quá ngắn, không đủ cho những tình thân được kết chặt - đã thế, ngôn ngữ lại chẳng bao giờ nói lên đầy đủ được tâm tình của con người, tôi nghĩ giá mà mọi người có thể đọc được tư tưởng của nhau (đỡ phải mất công viết lách, email, nói chuyện tốn phút điện thoại...), nhưng bỗng chột dạ nghĩ lại - nếu bà dzợ biết tôi đang có nhiều cái tư tưởng hắc ám trong đầu, chắc cái kiếp người của tôi sẽ bị "rút căn", làm ngắn lại một cách thảm hại, nhanh chóng.
Mẹ! đàng nào mình cũng chết tiệt! Đếch khá được!
ÔI ĐỜI!
SVT 04/21/2015
Về đầu trangHành Trình Về Đà Lạt-I
Trần Văn Sanh


Cuộc hành trình nào về Đà Lạt kể từ năm 1999 tới nay, lần nào cũng bắt đầu bằng một chuyến ghé thăm công ty du lịch Sinh Cafe ở đường Đề Thám. Vợ chồng tôi thường mua vé của công ty du lịch nổi tiếng với dân ngoại quốc, nhất là dân Tây ba-lô - vì họ làm việc rất đúng theo nguyên tắc của nước ngoài. Nghĩa là luôn khởi hành đúng giờ, cho dù trên chuyến xe 45 chỗ có khi chỉ lèo tèo vài người - như năm 2008 chẳng hạn, cả chuyến xe chỉ có gia đình tôi 6 người và thêm 2 người khách ngoại quốc. Sau đó là tài xế không dừng để đón rước khách vẫy xe dọc đường -
ngoại trừ khách đã mua vé trước và dặn đón họ trên tuyến đường lên Đà Lạt, và tài xế lái xe rất cẩn thận, phải gọi là quá cẩn thận chạy đúng tốc độ quy định, vì hớ hênh là sẽ bị Cảnh Sát Giao Thông (CSGT) phạt nặng, giam bằng lái - nếu không chịu "bôi trơn", hay nhờ "Cụ Hồ" năn nỉ dùm. Trong khi đó, có những hãng xe khác thì tha hồ mà lao nhanh, vượt mặt một cách rất nguy hiểm - vì họ ỷ đã có "ô dù" to che chở. Chưa hết, tài xế xe của hãng Sinh Cafe không bao giờ đưa hành khách đến những nơi gọi là "cơm tù", đó là những trạm dừng chân có quán ăn mà từ chủ, nhân viên tới môi giới (bây giờ hay gọi là “Cò”) thường nổi tiếng là dữ như gấu, ai không chịu vào ăn là có chuyện. Tôi cứ nghĩ, thôi - mình đi du lịch luôn tiện dư thời giờ để ngắm cảnh, chả có gì vội - thà chậm mà chắc ăn. Buổi sáng sớm hôm lên đường, trong lúc chờ đợi xe đến đón - khoảng vào lúc 7:30 sáng - tôi hay la cà đi dạo quanh mấy con đường bên cạnh như Bùi Viện, Phạm Ngũ Lão; thấy cảnh đời thường nào mà sau này về có chuyện để kể, tôi chụp vài ba tấm ảnh để dành - như tấm hình cái nhà hàng Crazy Buffalo mầu đỏ chét này, cách đây không lâu, đó là một khách sạn mà tôi đã bị mất ngủ cả đêm, vì tiếng nhạc mở ầm ĩ đến gần 2 giờ sáng mới chịu ngưng từ cái quán Bar Go-Go phía đối diện. Quả là vật đổi sao dời - nhất là trong cái bối cảnh kinh tế vươn lên của một quốc gia sau hơn 25 năm bị đè nén, đi thụt lùi. Nhiều nơi tôi thấy mới năm ngoái còn khai trương, mở quán có múa lân, có ban nhạc sống với kèn trống rất ư là hào nhoáng, nhộn nhịp, thế mà qua năm sau về đã thấy biến đâu mất, thay vào đó là cái doanh nghiệp mới, thương hiệu cửa hàng hoàn toàn khác lạ.

Sống ở Mỹ coi như đã gần 4 thập niên, tôi từng thấy cứ mỗi lần kinh tế suy thoái, hãng xưởng đóng cửa thì số người thất nghiệp dĩ nhiên phải tăng theo, mà đa số thường hay sống theo kiểu "để mai tính" - nghĩa là sống trên từng tấm ngân phiếu lãnh lương phát hai lần mỗi tháng. Sau vài tháng mà không có tiền trả tiền nhà, tiền nợ thì coi như lên đường sống kiếp không nhà, không cửa. Đấy là một xã hội tân tiến, văn minh vượt bực như thế mà không tránh khỏi hình ảnh những kẻ tha phương cầu thực, ngủ bờ ngủ bụi thì đừng nói chi là Việt-Nam lại có thể tránh khỏi.
Chỉ cách vài trăm thước, nơi có đám du khách - cả Việt lẫn ngoại kiều - đang tấp nập, tụ tập và háo hức chờ giây phút xe chuyển bánh lên đường đi đến những nơi xa lạ, phong cảnh đầy quyến rũ để tiêu tiền - tôi thấy có hai thanh niên đang rũ người ngồi bó gối ngủ gục với cái túi ny-lông bên cạnh, có lẽ đựng vỏn vẹn cái quần, chiếc áo của họ để thay đổi.
Trong lúc đang bần thần, chưa biết mình sẽ làm được gì cho họ, một thanh niên khác bán vé số với hai đôi chân tàn tật - đang lết dần lại ở đoạn bên kia đường. Tôi hồi tưởng lại những hình ảnh tương tự như thế khi lần đầu tiên - sau hơn 25 năm trở lại cố hương - và đã thầm nghĩ rằng: mỗi năm người ta dành dụm tiền nong, ngày nghỉ để du lịch DisneyLand, hay những chuyến du thuyền khắp Âu Châu, thế giới - sao mà mình lại cứ đâm đầu về chốn này, để chứng kiến cảnh trầm luân của đời thường khiến cho tâm hồn và cảm xúc cứ lên xuống y như người ta cưỡi những roller coasters ở các khu giải trí khắp nước Mỹ, có điều là thiên hạ thì thích thú, la hét khản cả họng trong lúc mình chỉ biết đứng nhìn mà chỉ biết thở dài.
Đối với xã hội bên Ấn-Độ thì có lẽ những hình ảnh này rất thông thường, vì họ cho rằng mỗi người sinh ra đời đều có một định mệnh, những kinh nghiệm mà họ muốn trải qua, để sau bao nhiêu karma - tái sinh hay luân hồi – khi nào linh hồn đã hiểu thế nào là vô thường, thế nào là đau khổ và từ đâu mà đến, lúc ấy thì họ mới thoát khỏi cái gọi là vòng lẩn quẩn của đời người.

Trong khi đó, kinh thánh của Thiên Chúa giáo cho rằng Chúa Jeus xưa đã có lần bảo: "Cái nghèo khó sẽ luôn luôn ở cùng với loài người", và càng nghĩ - tôi càng thấy thấm câu nói ấy vốn chẳng sai vào đâu, vì chung quy - cả nhân loại không sanh ra đời cũng một lúc, luôn luôn có kẻ trước người sau, cộng thêm cái gọi là: "9 người 10 ý" - thì làm sao có sự quân bằng, bình đẳng cho tất cả? Biết thế, nhưng hình ảnh người thanh niên tật nguyền ấy vẫn ám ảnh trong đầu óc tôi mãi cho đến ngày hôm nay và không biết đến bao giờ trong mai sau.
Một trong những thứ tôi hay mua đem theo trước khi xe chuyển bánh là tìm vài tờ báo Việt ngữ để đọc giết thì giờ cho chuyến đi có thể kéo dài từ 6 đến 7 tiếng, tùy đoạn đường tốt, xấu.
Quanh khu phố Tây ba-lô ở đường Đề Thám thì có cả đội ngũ người bán báo, bánh kẹo, bản đồ và đồ lưu niệm... lúc nào cũng đảo qua đảo lại, loanh quanh nơi những hàng quán, khách sạn và những chiếc xe buýt vừa đậu lại, đón tiếp hành khách. Trong nhóm người bán hàng rong đó, lần đầu tôi gặp một cô gái bán báo từ năm 1999, mua dùm cô hai, ba tờ báo để mở hàng, sau cuộc trò chuyện tôi biết quê cô ở mãi tận xứ Quảng, vào Sàigòn để kiếm ăn và gửi tiền về quê giúp gia đình.

Từ đó về sau, mỗi lần hai vợ chồng tôi dùng hãng Sinh Cafe để lên Đà Lạt hay những chuyến du ngoạn về miền Tây, tôi thường gặp lại - không phải chỉ riêng cô bán báo này - mà là hai cô gái bán báo giống hệt nhau như đúc. Hóa ra đó là hai chị em sinh đôi, và nhìn bề ngoài, chắc ít ai có thể nghĩ "cô bé" này tuổi cũng trên 28 và đã có chồng, con mà lương người chồng chỉ đủ trang trải phí tổn hàng ngày, muốn dành dụm thêm thì cả hai cô đều phải trở lại làm nghề bán báo - tuy không phải đi lang thang qua nhiều khu phố khác như nghề bán vé số - chỉ loanh quanh vài con đường quanh khu Đề Thám này thôi.
Xưa tôi thường lên xuống Sàigòn - Đà Lạt như cơm bữa, nhiều đến nỗi tuy dù có ngủ gà ngủ gật trên xe đò (thường là với một trong hai hãng: xe đò lớn Thống Nhất hoặc xe Minh-Trung, nhỏ hơn chỉ 12 chỗ), tôi vẫn đoán biết mang máng rằng mình đang ở tỉnh lỵ nào, thị xã nào. Chẳng hạn như lúc xe chạy thật êm thắm, không bị ổ gà và tiếng người lơ xe còn liếng thoắng mời gọi những người mang hành lý đứng bên lề đường, tôi biết mình vẫn còn đang trên xa lộ Biên Hòa; khi xe bắt đầu lắc lư, nghiêng phải nghiêng trái và chạy chậm lại, đó là lúc xe vào địa phận ngã ba Long Thành - Long khánh, nơi có đoạn đường xấu nhất vì thường hay hư hại, nhiều ổ gà - nơi hai tuyến đường tách những chuyến xe đò ra hai ngã - ngã đi về hướng Vũng Tầu, ngã tiếp tục lên Đà Lạt. Muốn kiểm chứng là mình đúng hay sai, chỉ cần hé mắt nhìn hai bên đường, chắc chắn tôi sẽ thấy cánh rừng cây cao su mọc dầy đặc, kín mít như đang chạy lùi lại phía sau.
Chừng hơn hai tiếng sau, khi xe ỳ ạch, mệt nhọc như đang leo dốc, tôi có thể bảo đảm rằng mình đang ở đâu đó trên đoạn Đèo Chuối, tức là đã đi ngang qua Phương Lâm, Định Quán không xa. Tôi thường hay tỉnh ngủ khi bắt đầu cảm thấy có gió mát lạnh lùa vào trong xe, và chắc chắn hơn khi mũi mình đánh hơi, ngửi được hương vị mùi trà thơm quyện trong không khí, biết mình đang tiến dần vào thị xã Bảo-Lộc; và sau bữa ăn trưa, độ chừng 2 tiếng nữa là sẽ đến Đà Lạt.

Hơn 40 năm sau, hành trình lên Đà Lạt từ Sàigòn - trung bình cũng vẫn phải mất trên dưới 6 tiếng đồng hồ, kể cả thời gian dừng chân để hành khách đi vệ sinh và cho bữa ăn trưa. Trong hoàn cảnh chiến tranh thì con đường này thường hay bị đắp mô, cầu cống bị giật xập để tạo khó khăn cho kẻ thù địch; cộng với chuyện đất lở, đất lún,v.v... khiến di chuyển bằng bất cứ phương tiện nào cũng chậm chạp, khó khăn. Vậy mà 40 năm sau giải phóng, giao thông trên con đường này vẫn ù lỳ, chậm chập - cho dù đã xây xong 20 km con đường cao tốc trước khi vào thị xã Đà Lạt, giảm được 30 phút thay vì gần 1 tiếng đi con đuờng cũ. Chẳng qua vì chính quyền trung ương lẫn địa phương (bây giờ chả hiểu sao, người ta hay dùng chữ "sở tại" thay vì địa phương như ngày trước) không có một kế hoạch thống nhất để trùng tu, xây cất, cộng thêm với cái gọi là công trình bị "cắt xén", ăn bớt một cách vô tội vạ - cho nên có nhiều đoạn đường mới sửa xong năm trước, năm sau đã bị hư hại, suy sụp nhanh chóng, nghe nói đâu như vì nhờ cái sáng kiến có một không hai trên thế giới đó là loại "bê tông cốt tre" (dùng tre thay vì dùng cốt sắt) để "tiết kiệm" tài sản của dân. Không thể tưởng tượng nổi! đó là câu dịch lại thật chính xác từ chữ "unbelievable" mà tôi đã lầm bầm trong miệng trong lúc nhìn đoàn xe nối đuôi nhau bị kẹt lại 1 tiếng đồng hồ ở đoạn sắp lên đèo Bảo Lộc vì đang có công trình sửa chữa ở phía trước.

Cho dù lên xuống Đà Lạt đã bao nhiêu năm, bao nhiêu bận, nhưng mỗi lần xe vào thành phố và từ trên cao nhìn xuống thấy hồ Xuân Hương ở phía dưới, lòng tôi vẫn cứ bồi hồi, giao động - mà có lẽ, trong tâm thức đã làm sống lại bao nhiêu kỷ niệm sâu đậm chìm sâu trong ký ức - nhất là nó khiến cho tôi nhớ lại cái cảm tưởng đầu tiên hơn 40 năm về trước, rằng tiền kiếp không chừng tôi đã từng sinh ra và lớn lên ở đây.
Về phố cũ tôi trở về phố cũ
Đồi thông buồn gió vẫn lạnh hơi sương
đi ngang qua cúi nhìn con nước
hồ im thăm thẵm mộng bình thường.

Đó là bốn câu thơ tôi đã viết lần đầu tiên sau hơn 25 năm trở về thăm nơi chốn mà mình đã một thời lang bạt, tạm ghé qua - xưa tưởng là nó sẽ mãi thuộc về dĩ vãng, của kỷ niệm, nhưng chẳng ai ngờ, có thể đây cũng là nơi tôi sẽ trở về - khi không còn sức để đi - sống những ngày còn lại của đời người. Đà Lạt mỗi năm mỗi thay đổi theo thời gian, đó là điều tẩt nhiên, là lẽ thường tình; nhưng sau bao lần về thăm tôi thấy có một điều thay đổi tuy âm thầm mà sâu sắc, khiến tôi trầm tư, suy nghĩ không biết sau này nơi đây vẫn còn là nơi thơ mộng, lãng mạn và người Đà Lạt vẫn còn lịch sự, dễ thương như ngày xưa. Chẳng riêng gì Đà Lạt, từ miền Trung cho đến tận mũi Cà mau, đâu đâu cũng có sự hiện diện, cũng nghe giọng nói của dân miền Bắc - mà từ xưa tôi vẫn biết sẽ có một cuộc di dân như thế tất nhiên xẩy ra sau khi đất nước đã hòa bình.

Cầu Ông Đạo về đêm

Ấp Ánh Sáng năm 2009 (bên trái) và 5 năm sau, dẫy nhà phía bên phải nay là cánh đồng trồng rau, trồng hoa của thị xã, dùng cho những mùa lễ hội.

Một vài hình ảnh quen thuộc ở ĐL.

Một tên du khách chịu chơi và gan cùng mình ở đồi Mộng Mơ...
Tất cả đều phải theo cái quy luật: ở đâu có sự tự do hơn, dễ sống hơn thì ở đó sẽ thu hút đông dân số hơn. Một người xe ôm - dân chính gốc ở đây - ngồi uống cà phê và tâm sự với tôi, rằng người Bắc mới vào họ sống rất cần kiệm, kiếm được 10 đồng thì họ chỉ tiêu có 6 hoặc 7 là nhiều nhất, trong khi đó dân Đà Lạt khá lắm là để dành được 1, 2 đồng. Thành thử, khi gặp khó khăn và không đủ tiền để sinh sống, dân Đà Lạt dần dà bỏ đi trong khi dân miền Bắc lại nương theo họ hàng - những kẻ đi trước - sẽ dần dần trở thành số đông trên thành phố cao nguyên, thơ mộng này.
Hành Trình Về Đà Lạt – II
Trần Văn Sanh
Cả cuộc đời ta lấy không làm có
đến cuối đời mới biết có là không.
(tác giả vô danh)

Đà Lạt mà không ghé thăm mộ người thân, nhất là người mẹ vợ đáng thương, đáng kính của mình thì thật quả là vô tình, thất lỗi - cho nên đó cũng thường là nơi đầu tiên vợ chồng tôi ghé thăm trước khi đi chào gặp, thăm viếng bà con, bạn bè. Khi xưa hồi còn trẻ, tôi hay ghé ra Vũng Tầu và sau này là Nha Trang, đứng trên bãi biển mà thấy đại dương và trời xanh bao la, để thấm cho cái thân phận con người quá nhỏ bé chà là nghĩa lý gì cả, huống gì là đem so sánh với vũ trụ và bao nhiêu giải ngân hà, hàng tỉ ngôi sao sáng trên trời. Bây giờ, mỗi lần viếng thăm khu nghĩa trang, nó còn nhắc nhở tôi cái vô thường, ngắn ngủi của đời người. Mà quả thật, một trong số những người có định mệnh ngắn ngủi đó là mẹ vợ của tôi. Bà là người gốc Quảng nhưng mất ở Đà Lạt khi tuổi vừa chỉ mới 49 - nghĩa là hơi ngắn cho cái kỷ nguyên văn minh, tiến bộ về y khoa và khoa học. Tôi dám nghĩ rằng ba vợ của tôi tuy bị mất mát bao nhiêu tài sản lớn lao trong đời, nhưng có lẽ không có gì đau khổ, đớn đau bằng mất đi một người vợ, một người mẹ duyên dáng, dịu hiền như người mẹ vợ của tôi. Hồi hai đứa mới quen nhau một thời gian, thấy con gái mình xưa đến giờ nhút nhát và khó kén chọn, lại có vẻ chịu đèn một tên Bắc kỳ cao lòng khòng, gầy nhom; mẹ vợ tôi có lúc lo lắng, bảo trông tướng tôi lưng dài chắc có lẽ lười lắm, sợ rằng con gái mình phải chịu cực, chịu khổ.
Sau khi gia đình chạy di tản từ Đà Lạt vào Sàigòn, thấy tôi khệ nệ bưng một thùng đựng đầy đủ nồi niêu, xoong chảo để gia đình tạm dùng trong lúc chờ thời; và tôi còn chịu khó mua bột gạo lức cho mẹ vợ tương lai của mình ăn để chữa bệnh chân bị phù thủng, không tiêu hóa được nước sau gần một tuần chạy loạn ăn uống thiếu thốn, thất thường. Đến lúc ấy thì mẹ vợ tương lai của tôi mới cảm thấy bớt lo. Bảo cái thằng sao thật chu đáo. Trong tấm hìng trắng đen dưới đây là ảnh kỷ niệm của gia đình nhà vợ chụp bên bờ hồ Xuân-Hương vào khoảng năm 1967, lúc ấy Thúy-Hoa chỉ độ chừng 12 tuổi - mà trong cái truyện ngắn "Ngộ Ái Nị", tôi có dùng tấm hình của vợ mình thuở đó ngồi với con gấu bông, gán nàng cho cái nhân vật chính "Cẩm-Linh" trong trí tưởng. Đến lúc trước khi nhắm mắt lần cuối vào tháng 2 năm 1985, mẹ vợ tôi có than một câu rằng "nằm đây mà mình chỉ nhớ con Hoa!". Câu nói ấy thỉnh thoảng vẫn cứ ám ảnh trong tâm khảm của tôi một nỗi buồn trộn lẫn hối hận mỗi khi về thăm viếng mộ, hay những giây phút bất chợt nhớ tới.

Một trong những nơi hai vợ chồng tôi thường hay đến ở thường xuyên - bắt đầu từ năm 1999 - phải nói là khách-sạn Châu Âu ở số 76 Nguyễn Chí Thanh, mà dân Đà lạt thường gọi là dốc Ngọc Lan, vì xưa con đường này có một rạp hát lớn nhất của thị xã và rạp hát này mang tên Ngọc Lan.
Hai vợ chồng chủ cái khách-sạn này cũng là bạn học cũ - mà Phước, tên người chồng, cùng là bạn học của Thúy-Hoa ở trường Lycee Yersin năm xưa. Sở dĩ chúng tôi chọn cái khách sạn này phần lớn vì nó rất tiện cho việc đi lại, nhờ nằm ngay trung tâm thành phố, đi bộ thăm bà con họ hàng và đi đâu cũng tiện bằng phương tiện "lô ca chân". Khách-sạn Châu Âu này có lẽ là cái khách sạn đầu tiên được cất lên sau năm 1975 và rất được khách du lịch từ Âu Châu ghé đến vì Phước nói rành cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp, hiểu rõ địa phương dễ như đọc trong lòng bàn tay, vì hắn sinh ra và lớn lên ở đây. Cuộc đời xẩy ra quả đúng như câu "vật đổi, sao dời", sau hơn bao nhiêu năm thường ghé đến ở cái khách sạn Châu Âu quen thuộc, năm ngoái (2014) khi trở lại Đà Lạt thì nơi này đã đóng cửa kín mít, ngoài có dán biển đề vỏn vẹn 3 chữ "Bán Khách Sạn" với số điện thoại để người mua muốn liên lạc. Hỏi thăm thì được biết nó được bán với cái giá rất "hời" - chỉ có 25 tỷ - và còn dễ dàng thương lượng được. Nghe nói thì vợ chồng Phước đã về hưu và di chuyển về Sàigòn để tiện bề giúp hai đứa con đang theo học Đại-Học ở đó.


(thêm một nạn nhân của thời gian, một XQ Sử Quán nổi tiếng một thời ở ĐL nay đã không còn hiện diện)
Thúy-Hoa còn có một người bạn gái học cùng lớp và còn chơi thân hơn Phước, cũng có một khách sạn nho nhỏ ở gần nhà thờ con gà, cho nên tuy có ở xa phố hơn chút xíu - chỉ chịu khó đi xuống con dốc Ngọc Lan qua bậc thang cấp gần bên cạnh (hình kế bên) để xuống tới bến xe đò cũ, băng qua cây cầu ông Đạo và leo lên con dốc nhà thờ Con Gà, hỏi thăm ai tên Thu-Hương trong khu nhà Chung - hay thường gọi là xóm Xuân An - thì có lẽ, chỉ những em bé chưa biết nói rành là không biết mà thôi.
Nhìn tấm hình cái cầu thang đi tắt xuống bờ hồ từ trên con dốc Ngọc Lan làm tôi nhớ lại khoảng thời gian phải gọi là thần tiên trong những ngày tôi mới lên Đà Lạt, vì cũng nơi này xưa có một xe bán Phở rất ngon (hay là tại buổi sáng đói bụng, trời lạnh lại được ngồi húp xì xụp tô phở nóng hổi), tôi thường ghé ăn sáng, rồi gọi uống tách cà phê sữa nóng, ngồi nhìn xuống quang cảnh nhộn nhịp của bến xe đò với những chuyến xe nằm ngoan ngoãn, chờ đợi giây phút để lên đường - phần lớn là về Sàigòn, hay nhìn cảnh hồ Xuân Hương thưỏ đó vẫn còn nhiều sương mù khi mặt trời còn ngái ngủ, dậy muộn khi mùa đông tới. Từ trên đỉnh cao của con dốc Ngọc Lan này, tôi đã bắt đầu có những suy nghĩ về cuộc đời, về thân phận của con người - thật khác hẳn với con người của chính mình cách đó không quá sáu tháng, khi còn đang ăn chơi xả láng - mỗi tháng đóng cho mình một đôi giầy mới, bộ quần áo mới và những dĩa nhựa 33, 45 tua - toàn những bản nhạc ngoại quốc – Hit Parade - thịnh hành nhất, và luôn có những buổi nhẩy đầm suốt đêm tới sáng.


Dốc Hòa Bình về đêm
Năm 2008, bốn thằng con lần đầu theo gia đình về thăm Đà Lạt, chúng nó đều nghe xưa tôi cũng từng giang hồ lên ở đây, nên tò mò muốn biết bố của chúng đã từng ở trọ nơi nào, sống và đi học một mình ra sao.
Tôi dẫn cả bốn thằng đi bộ từ trên con đường Minh Mạng - nay gọi là Trương Công Định - đi xuống đường Nguyễn Biểu mà dân quanh đây đều quen miệng gọi là “dốc Nhà Làng” - chỉ cho chúng nó căn nhà chị của nhà văn Tưởng Năng Tiến, nơi mà tôi từng thuê một căn phòng để ở trên hơn một tháng khi vừa mới lên đây. Tuy chỉ ở một khoảng thời gian quá ngắn, nhưng đấy cũng đủ cho tôi - hơn 10 năm sau - viết thành một truyện ngắn với tựa là "ĐÊM GIÃ TỪ PHỐ NÚI ", để nhớ lại một thời lãng mạn đã trôi qua.
Như tôi vẫn thường tâm sự, rằng bắt đầu từ những ngày đầu mới lên Đà Lạt, tôi cái thú đi dạo quanh bờ hồ Xuân Hương vào buổi sáng sớm tinh mơ - vì nhất là để được hưởng cái không khí tuy hơi lạnh nhưng rất trong lành, thứ đến là trong cái tĩnh mịch của ban mai tôi dễ cảm nhận những gì trong tâm thức bỗng trỗi dậy, sau một khoảng thời gian dài tiềm ẩn, chôn dấu từ lúc tuổi còn thơ cho đến những năm mới lớn, mới biết nếm mùi đời. Trong buổi sáng bình thường của một ngày nọ, khi tôi đã đi dạo hết một vòng bờ hồ và đang trên đường băng qua cầu Ông Đạo, một cặp du khách có lẽ tưởng lầm tôi là dân địa phương mới đi tập thể thao về nên chận lại hỏi thăm, nhờ tôi cho biết nên đi chơi những đâu, chỗ nào,v.v... Tôi thản nhiên chỉ cho họ thấy chiếc xe buýt giống như con voi đang rời bến để đi về hướng Trại Hầm. Từ xa, tôi đoán hai người du khách này có lẽ chưa chắc đọc được bảng tên nên tỉnh bơ bảo:
- Ông bà cứ đến bến xe phía bên kia đường, đón chuyến xe đò đi Trại Hòm, rồi từ Trại Hòm thì kế đó là Hồ Than Thở và sau cùng là Suối Vàng, thăm mộ Ông Hào… là những nơi nổi tiếng nhất để du khách thường thăm viếng...
- Úi trời! sao mà toàn những nơi nghe tên thấy mà lạnh gáy! nào là Trại hòm, hồ Than Thở rồi tới Suối vàng...

Phải chập sau họ mới hiểu tôi chỉ muốn đùa chút chơi, mà kể cũng lạ - đi đến đâu - từ Sàigòn ra đến Huế, thỉnh thoảng tôi cũng bị người đi đường hỏi thăm, chỉ cho họ về đường phố, cứ làm như tôi là dân địa phuơng chính hiệu con nai vàng ngơ ngác. Ngay cả trong chuyến đi vừa rồi ở Đà Lạt, tôi cũng bị dân địa phương chứ chẳng phải du khách hỏi thăm, chỉ đường. Như thế có lẽ sau này khi hồi hương về đây ở, tôi sẽ dễ dàng hòa nhập với dân ở đây mà cũng có thể sẽ được bầu làm Tổ Trưởng khu phố nữa không chừng! Tôi phóng đại một chút cho vui về chuyện này chẳng qua là vì tình cờ kỳ rồi gặp một bác mới đi bầu chức Tổ Trưởng trong xóm về, bác bảo rằng chả ai muốn ra tranh cử cho nên chức vụ ấy lại thuộc về người vẫn từng nắm giữ cái ghế "lãnh tụ" đó. Tôi cười hỏi bác, như vậy người ta gọi bà ấy là "Tổ Trưởng hay Tổ Bà?" và được bác vỗ mạnh vào vai, cười ha hả nói "Gớm! Cái cậu này coi vậy mà tếu ghê ta ơi!"
SVT
Về đầu trangHÀNH TRÌNH VỀ ĐÀ LẠT - III
Trần Văn Sanh

Riêng cho một thằng bạn – HNS - đã sớm bỏ cuộc chơi.
Ở Việt-Nam, nói đến địa danh Đà Lạt thì đa số, ai cũng nghĩ đến đó là một trong những nơi danh lam thắng cảnh rất hữu tình để du ngoạn, và nhất là cho những cặp vợ chồng mới cưới lên đó để hưởng tuần trăng mật. Con người ai cũng muốn đi tìm một người, một nơi chốn nào đó để đem đến hạnh phúc cho chính mình. Khổ một điều là mỗi người định nghĩa chữ "hạnh phúc" - hay thế nào là hạnh phúc - mỗi người một khác, mà nhiều khi, cái hạnh phúc của chính họ bây giờ cũng sẽ khác, cũng thay đổi theo thời gian và không gian. Nếu ai đã từng mua nhà, xây nhà hay sửa nhà có lẽ đã biết thế nào là tốn kém, nhọc sức khi mình mua lầm kiểu nhà, thiết kế kiểu bếp - để sau khi dùng nó một thời gian ngắn lại thấy nó không được như ý mình muốn.
Tôi còn nhớ vanh vách cái thời năm 1979, khi một người bạn trước đây du học rồi kẹt lại ở Mỹ sau năm 1975, ngày nghe tin anh ấy vừa ra trường ngành Kỹ-Sư mà đã có việc làm với số lương là $21,000.00 một năm, khi lúc đó lương tối thiểu chỉ mới là $2.10/giờ. Tôi nghĩ bụng giá mà mình hàng năm được lãnh số lương như thế cho cả chục năm, mình cũng sẽ rất ư là vui sướng, "hạnh phúc". Chỉ vài năm sau tôi ra trường và cũng được số lương như thế, nhưng chưa đầy một năm mà thấy không được lên lương là lòng y như là có chuyện chẳng vui. Thật ra, đấy chẳng phải vì muốn có nhiều thêm tiền, nhưng đó cũng là cái thước đo cho cái tài năng, sự đóng góp của mình cho công ty, mà nếu không được tăng lương thì chắc có lẽ mình vẫn còn dở ẹc, hay thiếu xót ở một điểm nào đó. Thời may là năm nào mình cũng được lên lương và nhiều tiền thưởng, nhưng cái gọi là đủ để "hạnh phúc" thì cũng chưa thấy nó bắt đầu lộ diện, cứ như cái bóng ma ẩn hiện khiến đôi lúc, tôi phải ngẫm nghĩ - nhớ lại cái thời con lưu lạc, lang bạt ở Đà Lạt - nơi mà ai cũng mong muốn dành dụm có tiền để lên thăm ít nhất một lần trong đời, còn mình thì lại ở đó và đang đi tìm cái hạnh phúc, mà nhất là tìm hiểu thế nào mới gọi là hạnh phúc mà ai cũng tìm kiếm. Lúc ấy, tôi mới hiểu rằng định nghĩa về hạnh phúc thường thay đổi, chứ chân lý thì không, sẽ chẳng bao giờ đổi thay. Bởi thế cho nên, lần về Đà Lạt năm 2008, trong lúc đi ngang những mảnh vườn trồng rau ở ngoại ô thị-xã, tôi dừng xe đứng nhìn và chụp tấm hình (bên dưới) - để nhắc nhở cho mình là chớ có đi tìm hạnh phúc mà phải hiểu thế nào là chân lý của hạnh phúc, có như thế thì tâm hồn mình mới an, mới được tĩnh.

Sở dĩ nhìn tấm hình những mảnh vườn rau xanh um khiến tôi chạnh nhớ cái chân lý mà khi xưa mình đi tìm, vì đã một thời sống chung dưới một mái nhà với người bạn nghèo học cùng lớp - Hoàng Như Sơn - ở cạnh những ô ruộng trồng rau xá lách xoong, chỉ đủ cho gia đình của Sơn để bán sống cho qua ngày, nhưng đó lại là những ngày êm đềm, hạnh phúc nhất trong cuộc đời của tôi.
Nói như thế không có nghĩa là từ đó về sau tôi không có cái hạnh phúc nào bằng, nhưng chân lý chính là khi cái thời gian hiện tại đã qua đi thì nó sẽ chẳng bao giờ quay trở lại, hạnh phúc nghĩa là biết cảm nhận và tâng tiu cái mình đang hiện có, như câu tôi vẫn thường hay dùng "có những cái bây giờ hiện tại, mai vẫn chỉ là mới qua, mốt cũng vẫn còn là mới qua; mai sau nó sẽ trở thành dĩ vãng và kỷ niệm", chúng ta thường hay lưu lại trong ký ức và dễ nhớ lại những kỷ niệm đẹp, và muốn chôn vùi những gì gọi là xấu xa, đau buồn nhất ở tận đáy lòng.
Hè năm 1973, sau khi ở Đà-Lạt được hơn một tháng, tôi trở về Sàigòn trong một dịp cuối tuần để mang lên cái giá vẽ và những khung vải tôi đặt sẵn từ trước. Đang ngồi trên chuyến xe đò chờ giây phút khởi hành, một thanh niên xa lạ từ đâu bỗng bước đến hỏi chuyện:
- Xin lỗi, có phải anh về SG phải không?
- Vâng.
- Tôi cũng thế, thấy anh trông có vẻ dân văn nghệ nên muốn làm quen, để trò chuyện trên chuyến đi.
Tôi tên Sơn.
Hắn đưa tay cho tôi bắt.
- Tôi tên Sinh, người nam gọi là Sanh.

Được biết Sơn hôm đó mang bó hoa Hồng về SG để tặng cho người yêu, một cô SV học ở trường Luật Khoa, và khi nghe tôi nói lý do chuyến đi của mình. Sơn vỗ đùi tự khen: "Biết ngay mà! bạn có dáng trông rất nghệ-sĩ, nhìn biết liền!". Tôi lúc đó nghĩ và cười ruồi trong bụng "Mẹ! tướng tá mình gầy nhom, trông như chó ốm. Văn ghệ với văn gừng con khỉ!". Từ đó Sơn trở thành thằng bạn thân đầu tiên ở ĐL. Hắn lớn hơn tôi gần hai tuổi, được cha mẹ đặt tên là Hoàng Như Sơn, nghĩa là cao lớn như núi - nhưng Sơn lại lùn tè, đứng cỡ chỉ một thước mốt. Có lần tôi bảo Sơn:
- Chả cần tao chấm tử-vi gì ráo, số mày phải lấy con vợ cao ráo, chân dài...
- Tại sao? Sơn tò mò.
- Này nhá, mày lùn và tròn như hột mít, lấy một hột mít nữa thì con mày sẽ thành hột đậu, mà nó mà lấy vợ hột đậu nữa thì sẽ sanh thằng cháu nhỏ như hột tiêu, rồi hai hột tiêu mà lấy nhau thì coi như triệt...tiêu luôn! Nghe lời ông đi con.
Cũng hên là Sơn có tánh giống tôi, cũng là dân Bắc Kỳ di cư, hai thằng đều có máu đùa dỡn, nghịch như quỷ - có khi quỷ sứ chắc cũng phải chào thua - cho nên nó đấm vào vai tôi để trả đũa cho câu sấm truyền đùa giỡn về tương lai và cái lùn của hắn. Có lẽ vì ông trời bắt Sơn mang cái tội phải lùn cho nên đã đền bù nó với những tài năng khác, thằng này ăn nói rất có duyên, dẻo quẹo và hoạt bát. Ngoài ra hắn tự học, chơi đàn guitar rất tuyệt mà tôi đã học từ Sơn cách búng ngón tay, chơi những bản Carulli. Nhà Sơn ở đường Phạm Hồng Thái, không xa Nha Địa Dư và nhà ga xe lửa, và có hai mảnh vườn trồng rau sà lách xoong mà cả nhà sống nhờ vào đó. Trước khi quen với tôi, Sơn làm nghề cưa chữ để bán cho du khách làm lưu niệm, mà những tên, chữ hắn làm rất cầu kỳ và công phu cho nên mất nhiều thì giờ để nắn nót từng lưỡi cưa và phải cẩn thận khi chà giấy nhám.

Thay vì tốn tiền phòng trọ ở một mình, Sơn rủ tôi dọn về ở chung với gia đình hắn - nghe cũng có lý nên tôi đã đồng ý, và nhờ ở chung mà sau khi quan sát lối làm việc của Sơn, tôi đề nghị Sơn thử cưa loại chữ mới, dùng bút pháp mà tôi viết theo kiểu chữ của Trịnh Công Sơn, vừa tao nhã phóng khoáng, vừa đỡ tốn gỗ và cưa rất nhanh. Một chữ kiểu cũ Sơn làm để bán bấy lâu nay bằng thời gian để cưa bốn, năm chữ kiểu mới tôi vẽ. Không ngờ điều này lại đưa đến một sự thành công bất ngờ cho Sơn, nó kiếm tiền dễ dàng và nhiều hơn từ dạo đó. Một điều trùng hợp giữa tôi và Sơn là tôi vì ham chơi, ham nhẩy đầm cho nên thi rớt tú tài cho nên năm đó tôi phải học lại lớp 12, còn Sơn không rõ vì lý do gì cho nên cũng phải học lại cùng lớp. Ban đầu hai đứa rủ nhau ghi danh học ở trường Việt-Anh mà tôi còn nhớ một buổi sáng sau khi mọi người đứng ở ngoài sân chào cờ, thầy Phỉ là Hiệu Trưởng đi "duyệt binh" trong hàng ngũ học sinh, chọn mấy tên cao ráo để cầm cờ, phù hiệu đại diện trường trong buổi diễn hành ngày kỷ niệm lễ HùngVương.
Xui một điều là thầy HT "chấm" tôi với điểm cao ráo, bắt tôi phải cắt cái đầu tóc dài mới "được" vinh dự đi diễn hành - lúc đó chẳng phải tôi vì khoái làm hippy gì ráo, mà đã chán ăn chơi, chán đua đòi một cuộc sống thác loạn, không tương lai ở SG - nhưng tôi không thích ai bảo mình phải làm thế này, theo kiểu nọ. Tôi cười ruồi hỏi ngược lại:
- Nếu tôi không cắt tóc thì sao?
- Thì cậu không được chọn để đi diễn hành.
- Vậy hả. Tôi cũng chẳng thích đi diễn hành.
- Cũng không được. Cậu phải cắt cái mái tóc dị hợm đó tôi mới cho vào lớp.
- Xin lỗi thầy, tôi sẽ kiếm trường khác.

Thế là tôi bước ra khỏi trường ngay hôm đó, mà Sơn cũng ba gai không kém, nó cũng có mái tóc dài gần bằng tôi cho nên hai thằng tỉnh bơ sách cặp bước ra khỏi sân trường, không đợi thầy HT đuổi hay cãi cọ chi cho tốn thêm nước miếng. Những tháng sau đó, trong khi tôi còn la cà học thử ở hai trường khác - trường TH Bồ Đề và trường bán công Quang Trung mà tôi thấy cả hai đều dở tệ. Khi gần đến tháng chót phải ghi danh học ở một trường để được hợp lệ cho kịp kỳ thi Tú tài IBM năm 74, tôi theo Sơn - hắn đã "đầu quân" vào trường Văn-Học của thầy CBA, mà tôi chỉ vào lớp trong những ngày "lành tháng tốt", thường thì cúp cua vào thư-viện gần nhà thờ con gà đọc sách, hay lang thang trên đồi cù ngồi dưới gốc thông để ngẫm chuyện đời. Ban đầu, Sơn tưởng tôi là dân mồ côi, không gia đình hay cha mẹ, đi giang hồ rồi ghé thích và ở lại ĐL vì nó chưa hề nghe tôi nhắc chuyện về SG hay đi đâu thăm gia đình. Có nhiều hôm hai thằng nghèo mốc đít, đói meo không tiền ăn sáng. Đôi khi cả nhà nó và tôi ăn cơm trộn khoai cho no, rau thì món sà lách xoong vừa nấu canh, vừa xào tỏi với ớt ăn dài dài. Hôm nào hên bán được nhiều thì có vài miếng gà kho gừng mặn chát, ăn cho uống nước nhiều vào để căng bụng, đỡ tốn. Hoặc có hôm ăn ổi còn xanh mét trừ cơm, bị táo bón cả mấy ngày sau. Một hôm, tôi rủ nó về SG thăm nhà ở đường Yên Đỗ (nay là Lý Chính Thắng), đối diện nhà nghị-sĩ kiêm chủ nhà băng Nguyễn Tấn Đời. Buổi sáng thức dậy ở lầu ba, trên sân thượng là cái "giang san" phòng ngủ riêng của tôi, người làm đã bưng đồ ăn sáng và cà phê để sẵn, Sơn nhìn tôi lắc đầu bảo "Mày, rõ là thằng khùng!". Từ đó trở đi, khi trở lại ĐL để tiếp tục học, tôi bảo gia đình thường xuyên gửi tiền để tôi đóng góp, giúp đỡ gia đình Sơn - ngoài những công việc phụ nó cưa chữ, chà nhám, sơn phết đánh bóng và đem đi giao hàng cho cách sạp ở ngoài chợ. Mùa thi tú tài năm đó, cả hai thằng đều may mắn thi đậu, mà nó đậu cao hơn tôi nhờ học siêng hơn.
Tôi còn nhớ là hai môn thi cuối cùng là môn Toán trắc nghiệm và môn Pháp văn; dù làm chưa hết bài nhưng sau khi tính nhẩm cho những môn khác cộng lại, tôi chắc mình đã đủ điểm nên nộp bài tàn tàn ra về. Hôm đưa mẹ tôi đi xem kết quả ở SG, thí sinh nào đạt được tổng cộng trên 162 thì sẽ đủ điểm để đậu. Trong lúc tôi hý hửng, thầm phục tài bấm độn, tiên đoán cỡ như Khổng Minh của mình vì tôi vừa đủ khít khao 169 điểm, mẹ tôi dò bảng tên đọc mà muốn xỉu ngay tại chỗ - không biết vì mừng hay vì bị tôi chơi một cơn ú tim! Dù sao đi chăng nữa, cái thằng nghịch tử hai năm ở nhà thi không đậu, nay la cà ở phương xa, học lơ tơ mơ thế lại mà được, mẹ tôi mừng hết lớn, nhất là thấy thằng con đã trở về nhà và "tự dưng" lại chăm chỉ chuyện học hành.
Thêm một chuyện kể về thằng bạn. Sơn có cái tật là thích tán gái, và có lẽ để che dấu cái mặc cảm "thiếu chiều cao, thừa bề ngang", bạ ai nó cũng ve vãn tán tỉnh. Trên con đường đến trường VH, hai đứa thường hay gặp một cô bé "má đỏ môi hồng" rất dễ thương mang phù hiệu của trường BTX. Tôi thích chỉ lẳng lặng đi theo sau để ngắm, tưởng tượng rồi mơ mộng để làm thơ giải trí tinh thần. Sơn thì gặp một thiếu nữ tuổi chừng 15, 16 xinh như mộng nên hắn ta khoái bét tĩ, mê như điếu đổ. Cô bé biết hai thằng Bắc kỳ dê xồm, mắc dịch, thỉnh thoảng như cái đuôi lẽo đẽo theo phía sau mỗi sáng cho nên có lúc hai chân em đi lính quýnh, lạng quạng. Tôi về làm bài thơ và cho thằng bạn đọc chơi.
Nhỏ cười con mắt có đuôi
chân đi hài đỏ, dáng người thanh thanh
nhỏ đi nón là nghiêng vành
anh theo chân nhỏ, nhỏ đành ngơ sao
thôi về dệt mộng chiêm bao
rằng mai đón nhỏ, cười chào làm quen...
SVT 1974
Sơn đọc bài thơ nghe chịu quá, bảo cho phép nó ngày mai đi phía sau và đọc thơ cho cô bé nghe. Tôi ừ ào Ok và để xem cô bé sẽ phản ứng như thế nào. Ai ngờ sau khi nghe thằng Sơn mắc dịch ngâm khẽ bài thơ, cô bé quay lại nhìn hai thằng cười và khoe nguyên hàm răng...sún. Tôi ráng nín cười để cô bé khỏi đau lòng, mắc cở - nhưng thằng bạn tôi lại đau khổ gấp bội phần, vì người đẹp trong mơ của hắn đã làm hắn vỡ mộng ba sinh ngay từ giây phút đó.
Cũng vào khoảng mùa hè năm 1973 đó, trong một buổi sáng đi dạo quanh hồ Xuân Hương, tôi tình cờ gặp hai chị em Vân và Thu; nhưng Thu là người nhận ra tôi, xưa từng học ở trường VănHọc ở đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ) do nhà thơ Nguyên Sa (Trần Bích Lan) và phu nhân (Nga) làm hiệu trưởng. Thu bảo năm trước tuy học sau tôi một lớp nhưng đã để ý biết tôi và người bạn tên Thạch học cùng lớp.
Thấy tôi nàng liền nhận ra ngay, và sau đó hai chị em nhờ tôi làm hướng dẫn viên cho những ngày ở Đà Lạt. Tôi bán cái cô chị cho Sơn - vì tuổi tác có lẽ cũng chắc ngang bằng hắn. Không ngờ chỉ vài ngày sau, Thu bị cú gọi là tiếng sét ái tình - y như câu ca dao "Đà Lạt đi dễ khó về, trai đi có, vợ gái về có con", mà cũng may tôi thuở đó rất lơ tơ mơ về chuyện yêu đương, chỉ trong phạm vi văn chương, thơ với thẫn mà thôi. Cô chị tên Vân cũng có vẻ khoái thằng Sơn, đi chơi thường hay nắm tay nhau rất mùi mẫn. Tôi không biết lúc đó mình vô tình hay ác ý, nhưng thâm tâm chỉ muốn Thu mang kỷ niệm thật đẹp, thật lãng mạn của thời còn con gái, để mai này như câu hát "đến khi lấy chồng, chỉ còn mối tình mang theo", và đó sẽ là cái kỷ niệm để an ủi, xoa dịu tâm hồn nàng mỗi khi có chuyện buồn xẩy đến trong đời. Hôm chia tay trước khi hai chị em trở về Sàigòn để vào trường ĐH Sư Phạm, tôi với Sơn đưa hai nàng đi vào quán cà Phê Tùng, rồi dạo quanh phố trước khi trở về khách sạn. Dĩ nhiên Thu đã cho tôi cái địa chỉ của nàng và bắt phải hứa rằng nếu có về lại Sàigòn thì phải ghé thăm và tìm kiếm nàng. Tôi hứa nhưng trong lòng biết mình đã nói dối, thôi cứ để thời gian sẽ xóa nhòa vết thương lòng của một người con gái đã vội yêu, vội nhớ vì khung cảnh quá lãng mạn của vùng đồi núi; còn lại chăng sẽ là những ngày đầy thơ mộng, một kỷ niệm mà tôi nghĩ sẽ là những giây phút tưởng nhớ một thời đẹp nhất trong đời người con gái.

(ảnh chụp với Thu trên sân Cù ĐL)
Nẫy giờ tôi toàn nói về chuyện ăn chơi, lang bang với thằng bạn tên Sơn mà chưa hề đá động đến chuyện một mối duyên tương ngộ đã đưa đẩy cuộc đời tôi hoàn toàn vào một ngã rẽ khác. Những ngày cuối cùng trước khi trở về SG để vào học ĐH, Sơn rủ tôi đến dự tiệc của người bạn gái cũ cũng vừa đậu tú tài. Cóc có mục gì hay hơn để đi chơi, tôi nhận lời tuy chẳng mấy hứng thú gì cho lắm từ khi tôi bỗng thay đổi 180 độ, từ bỏ hết những cuộc ăn chơi nhẩy đầm thâu đêm, suốt sáng gần một năm trước đó. Trong bữa tiệc tôi rất ít nói, ai hỏi sao thì tôi trả lời thật ngắn gọn và được xếp ngồi đối diện với Thúy-Hoa và Chử Nhất-Anh, sau này mới biết cả hai đều là bạn của An, tên cô gái bạn của Sơn. Thúy-Hoa kể lại là đã gần năm, sáu năm mới gặp lại An và được cô bạn mời đến dự tiệc. Ban đầu Thúy-Hoa không tính đi, nhưng không hiểu sao trong đầu như có tiếng nói bảo rằng sẽ gặp một người rất đặc biệt và quan trọng, nhưng trong suốt buổi tiệc Thúy-Hoa bảo chả thấy ai có vẻ gì là nổi bật cho nàng chú ý, ngoại trừ một câu nói bâng qươ vô tình, nhưng rất thành thật của tôi - sau khi nghe nói vài người có ý định về SG để học - tôi bảo nếu ai muốn biết về đường đi nước bước của các trường ĐH ở SG, tôi sẽ giúp. Chỉ có thế, và tôi cũng chẳng nghĩ ngợi gì sâu xa, thậm chí ngay đến bây giờ - gần 40 năm sau tôi mới biết Chử Nhất-Anh cũng đã có mặt trong buổi tiệc ngày hôm đó. Chẳng ai ngờ cái buổi tiệc cuối cùng trước khi rời ĐL đó lại là một khúc quanh quan trọng nhất trong đời tôi, và nếu Thúy-Hoa đã quên khuấy hoặc không tin vào lời tôi hứa thì cái "khúc quanh định mệnh" này cũng đã chẳng xẩy ra.
Thỉnh thoảng hồi tưởng lại, tôi thấy có hơn 1001 lý do để mà chúng tôi đã không có dịp "đấu tranh" với nhau hơn bốn thập-niên.
SVT
Về đầu trangHÀNH TRÌNH VỀ ĐÀ LẠT – IV
Trần Văn Sanh

Ai đã từng ở Đà Lạt mà không hề biết nơi gọi là Nguyệt Vọng Lầu thì quả thật là người cù lần, cả đẫn nhất thị-xã, cho dù người ấy không hảo ngọt - không thích ăn chè - nhưng ít nhất cũng phải một lần ghé lên phố chơi. Tuy đã từng đi ngang qua quán chè này đã bao lần, nhưng tôi chưa hề một lần ghé, vì xưa chỉ có 1 tiệm chè mà tôi thường hay vào ăn, đó là tiệm chè Dạ Thảo cũng nằm phía trên con dốc Minh Mạng này - nay đã không còn từ sau năm 1975. Khi theo đứa em trai lái xe trở lại Đà Lạt lần thứ nhì trong năm 2014 vừa qua, một chuyện mà từ trước đến giờ chưa hề làm - chẳng qua là vì sau bao nhiêu chuyến xuôi ngược Nam-Trung-Bắc và đã suy nghĩ kỹ lưỡng, vợ chồng tôi chọn Đà Lạt là nơi mình sẽ quay về và sống trong những ngày còn lại - khi không còn sức để mà làm những chuyến bay ngàn dậm, kéo dài gần như cả nguyên ngày trên mây.
Cuộc hành trình lần này là để xem xét về vấn đề thị trường đất đai, nhà cửa ở Đà Lạt hiện nay ra sao - có bị "đóng băng", bán không chạy - như hiện tình chung cho cả nước. Do đó, lúc đi ngang qua tiệm chè Nguyệt Vọng Lầu này, thấy tấm bảng đề chữ "BÁN ĐẤT", sẵn cái máy ảnh trong tay và lười ghi những chi tiết vào cuốn sổ, tôi chụp đại một tấm làm tài liệu để sau này nếu muốn gọi liên lạc với người chủ miếng đất rao bán. Xưa không biết bao nhiêu chàng Võ Bị, với cái phù hiệu Alpha mầu đỏ đeo trên vai, trong bộ đồng phục trông thật oai phong oai vệ - cuối tuần thường đưa những tà áo dài tha thướt vào quán này để tâm sự và chỉ cần ngồi nhìn môi nhau cũng đủ thấy cái vị ngọt ở đầu lưỡi. Bây giờ tôi không biết quán này còn hoạt động nữa hay không, sao lại treo cái bảng bán đất nơi cửa sổ che cái tầm nhìn xuống con dốc ở phía dưới thay vì ở một góc khác.
Ngoài những tiệm chè, tiệm bánh, và các quán cà phê - như quán cà phê Tùng, Tao Đàn, Hương Sơn hoặc Hạnh Tâm bên bờ hồ - vào những ngày cuối tuần hay những dịp lễ thường đông khách, ai lên Đà Lạt phải một trải nghiệm ít nhất là một lần, đứng hoặc ngồi lê la trên các vỉa hè ở góc đường Minh-Mạng, Tăng Bạt Hổ để gọi uống một ly sữa đậu nành thật nóng hổi, đi kèm với dăm ba cái bánh Xu, bánh Cốm, bánh Đậu Xanh, v.v…nhìn thiên hạ, ông đi qua bà đi lại - hay lãng mạn hơn là nhìn những cặp nhân tình ôm nhau đi khung trời về đêm giá lạnh. Bảo đảm, đi một lần rồi bạn sẽ cảm thấy ghiền, thấy nhớ khi rời xa cái phố núi đầy sương với những cái kỷ niệm ấm cúng đó.

Nhưng sự thật thì bạn cũng phải nên cẩn thận, đề phòng vì bây giờ nghe nói có những người mua loại bột đậu nành pha, hay làm toàn bằng chất hóa học sản xuất từ Trung Quốc, uống vào sẽ thấy vị cũng không khác chi mấy nhưng dĩ nhiên rất là độc hại. Nếu là một phóng viên, nhà báo ở đó, chỉ cần giả vờ hỏi mua lại bã đậu nành để đem về cho heo ăn, xem người chủ quán sẵn sàng bán thay vì đem đi đổ rác. Nếu họ không có một số lượng bã nhiều như sữa đậu nành họ bán, ít nhiều gì người ta đã lợi dụng lòng tin của khách hàng, đi con đường tắt để kiếm lời, quên đi cái luật Nhân Quả cho mai sau.

Nếu như bạn vẫn còn đói bụng, thích những món ăn vặt và không muốn vào nhà hàng vì sợ chặt chém, không ngon, hay chẳng có cái không khí vui nhộn, tấp nập thì mời bạn ghé sang khu chợ Hòa Bình, nơi có bậc thang cấp dẫn xuống khu chợ dưới mà ban đêm nó thường trở thành khu ẩm thực cho dân địa phương và du khách có máu liều, muốn thử những món ăn lạ. Tôi tình cờ bắt gặp một cô gái có một nụ cười thật tươi, ngồi bên cạnh vừa gọi món ăn, vừa giải thích cho anh chàng ngoại quốc - bạn hay là người yêu tôi chẳng rõ, vì đứng phía xa chụp lại với cái ống kính telé. Chàng trai ngoại quốc này tay đang cầm cái bánh "Pizza Đà Lạt" - một sáng kiến rất thịnh hành hiện nay ở đây mà vật liệu chỉ là cái bánh tráng với 1, 2 cái trứng gà đánh ra và trải đều trên bếp than, nướng với những gia vị như hành lá, tôm khô và có khi cả xúc xích thái mỏng nữa. Nhìn đôi bạn hay đôi nhân tình này ngồi cạnh bên nhau ăn uống, thì thầm nói chuyện mà thấy lòng chợt thở dài, tiếc cho cái thời vàng son như thế của mình mới đó mà đã qua tự bao giờ, đã phôi phai lùi dần vào dĩ vãng.

Phải thừa nhận rằng ngay từ năm 1999 - lần đầu tiên trở về thăm lại Đà Lạt cho đến giờ, tôi chưa hề gặp một người ăn xin ở cái thị xã nhỏ bé này mà tôi từng nghĩ, có lẽ tại cái lạnh khiến cho những người không gia cư, không nơi nương tựa phải tha phương đi những chốn mà khí hậu ấm áp hơn, dễ sống hơn - như ở Sàigòn chẳng hạn. Chứ đêm mùa đông ngủ ngoài trời ở đây thì chỉ có nước lạnh cóng, có khi lạnh thấu xương khó mà chịu nổi. Vậy mà sáng hôm nay, lúc đi bộ leo lên ngọn đồi – con đường mang tên Lê Thị Hồng Gấm - nơi khi xưa có Trung Tâm Tạm Giam, tôi thấy hai người đang nằm co quắp ngủ say trong căn chòi lót gạch với mái ngói xây cho du khách dừng chân, đứng nhìn quang cảnh hồ Xuân Hương ở phía dưới. Không biết đây có phải là hai người say rượu nên cóc cần biết trời lạnh hay không, nhìn quanh tôi chẳng thấy vỏ chai bia, hay chia rượu nào, hy vọng họ chỉ ghé tạm qua đây rồi sau đó lại lên đường xuôi nam. Cuối bờ hồ cách chỗ hai người này nằm không xa, có một miếng đất mà người ta quảng cáo là "đất vàng" - đang cần bán mà mỗi mét vuông chỉ có 140 triệu đồng - nghĩa là 14 tỷ đồng cho 100 m2 - đủ để xây một mái nhà tranh nho nhỏ cỡ 5m x 20m. Uổng một điều là người ta không cho câu cá trên hồ Xuân-Hương, chứ có miếng đất và xây cái nhà ở đó, mỗi sáng sách cần câu xuống kiếm vài con cá về chiên hay kho, coi bộ cũng dư sức sống qua ngày.
Ở Việt-Nam có một trong những điều vô cùng nghịch lý, đó là số thu thập bình quân của người dân trong nước không tới $3 triệu đồng một tháng - hoặc $36 triệu cho một năm - theo thống kê thì gần như thấp nhất ở Đông Nam Á, thế mà giá nhà cửa, giá đất thì lại chẳng thua gì ở bên Mỹ; nếu tính theo kiểu dân nghèo ở Mỹ với số lương bèo nhất là $9/giờ - nhân cho 2010 giờ cho một năm và theo hối xuất là 1 US = 22,000 đồng Việt - thì họ cũng quơ về được $398 triệu đồng tiền Việt, vậy mà đa số vẫn phải đi ở thuê, ở chung chạ mướn phòng. Nhìn cái bảng bán nhà với chữ "Giá Rẻ" trong tấmhình phía dưới. Giá cả toàn bạc TỶ, toàn cỡ ông lớn và đại gia chỉ có thể tung tiền ra mua mà thôi.

những mảnh đất đi xem
Nói cho cùng, Viện Giám Sát và Thống Kê ở Viêt Nam kể ra có lẽ cũng thành thật và đưa ra con số chính xác, chỉ dùng số lương thật sự được lãnh, kiếm đuợc từ mồ hôi, nước mắt của mọi người - từ quan lớn cho đến dân quèn, cho nên con số lợi tức thu thập bình quân hàng năm mới thấp đến thế, hơi đâu mà tính thêm ba cái chuyện lẻ tẻ như bôi trơn, phong bì, cắt xén...chứ nếu cộng lại hết thì có khối gì những tỷ phú, đại tỷ phú ở Việt Nam nên đất đai, nhà cửa mới bị giành giật, mà có một thời leo giá đến chóng mặt.

Nhân tiện nói về chuyện đất đai nhà cửa ở Việt nam, hiện nay từ Đà Nẵng, đến các tỉnh ở miền Tây - đâu đâu cũng thấy mọc lên công trình xây dựng - gom tất cả các trụ sở hành chính (xưa gọi là công sở) - về một nơi, với một lý do rất chính nghĩa, chính đáng đó là để tiện việc cho người dân đi làm thủ tục đủ mọi thứ giấy tờ ở một nơi, không phải chạy đôn chạy đáo rồi lại chầu chực cả ba phương, bốn hướng. Ở Đà lạt cũng nằm trong cái kế hoạch đó cho cả nước. Đứng từ phía cổng vào của Ấp Ánh Sáng năm xưa - nay đã chẳng còn - tôi chụp tấm hình 5 cái tòa nhà mầu trắng ở trên đồi - ngay trên con đường Trần Phú, nằm ở hướng phía trái của nhà thờ Con Gà - vừa xây xong và mới khánh thành cách đây một, vài tuần. Sự thật thì người ta muốn vẽ thêm chuyện, thêm công trình để có giúp bao nhiêu người bỗng trở thành tỷ phú với một vài chữ ký, còn những cơ sở hành chánh cũ thì sao? thì lại thuộc về tay của người nào thì ai cũng dư biết.
Rồi trong một lần trong chuyến đi xem đất đai, tôi tình cờ tạt ngang qua khu nhà ga, nên ghé vào xem sự đổi thay của nơi chốn mà ngày xưa mình thường ngang qua khi còn ở thuê một căn phòng ở cư Xá Nha Địa Dư, nơi ba chị em Dung, Thanh và Mai đã ở. Ga Đà Lạt bây giờ đã được trùng tu, sửa sang lại nên trông cũng tươm tất, ít còn cảnh hoang tàn, đổ nát như ngày xưa, vì bây giờ nhiều du khách Âu Châu muốn đến xem cái văn hóa và công trình của người Pháp xưa đã để lại và cũng là nơi bắt đầu có chuyến xe lửa dành cho khách du lịch, mỗi ngày 3 chuyến lên xuống từ Đà lạt xuống Trại Hầm.

Trước cổng vào nhà ga vẫn còn những hàng quán nhưng bây giờ nhiều hơn xưa. Tôi không nhớ tên cái tiệm phở - mà chỉ nhớ là sau khi tôi bán được bộ đồ Vest còn lại từ thưỏ còn ăn chơi - có vài ngàn bạc rủng rỉnh trong túi, tôi và Sơn rủ nhau vào tiệm phở - mỗi thằng quất hai tô phở "Xe Lửa" , nghĩa là tô lớn - vì đã lâu chưa được vào tiệm kéo ghế ngồi ăn những món "xịn" như thế, cho dù mỗi tô phở hình như chỉ chừng $30 - $50 đồng bạc. Hôm đó hai đứa ăn no căng diều hâu, đến nỗi bà chủ tiệm tưởng như hai thằng chết đói từ trên rừng mới xuống phố.
Ngày hôm sau tôi trở lại khu nhà Ga, sau khi đã đi một vòng ghi lại hình ảnh của Đà Lạt bừng tỉnh trong cảnh bình minh, tôi nhờ bác tài xế xe ôm đưa tôi đến con đường Nguyễn Du, nơi xưa tôi và Sơn đã một lần ghé chơi nhà của thầy Hiệu-Trưởng Chử Bá Anh. Bề ngoài trông cái biệt thự số 30 ấy vẫn không gì thay đổi và có vẻ như hoang vắng, không ai ở khiến tôi rất lấy làm ngạc nhiên, vì với cái diện tích và địa điểm của biệt thự này phải là loại "đất vàng", cỡ ít nhất chục tỷ bạc - thế nào cũng bao nhiêu kẻ ngắm nghé, muốn làm sở hữu, và xây cất lại với kiểu biệt thự to lớn, bề thế hơn.

Về nhà mở phóng lớn tấm hình qua Photoshop, tôi mới thấy có cánh cửa đang mở và bên trong một chiếc xe tay ga - nhìn đâu như hiệu Honda Attila - với bảng số của tỉnh Lâm Đồng số 49 Phường 3 (49-P3 /6360) mà chỉ cần lên Công An tỉnh hỏi vài câu sẽ biết ngay ai là chủ của chiếc xe. Có lẽ kẻ ở tạm đây không muốn sự chú ý của người ngoài, nên họ đã để yên cái sofa rách tơi tả ở hiên nhà; nhưng nhìn sân trước trông sạch sẽ, quang đãng - không một ngọn cỏ dại mọc, và cánh cửa mầu xanh khép kín phía nhà sau vẫn còn nguyên vẹn, như đã được ai đó trưng dụng và bảo trì thường xuyên, không bị lệch lạc hay rỉ sét. Con đường Nguyễn Du ngày xưa trong trí tưởng chỉ là một con đường nhỏ với hàng thông cao ngất, rậm rạp hai bên đường, nay đã được mở rộng thêm, chưa kể là có một nơi nghỉ dưỡng (resort) rất sang trọng mới mọc lên phía bên trái, cũng trên con đường này từ phía bờ hồ đi vào.
bao năm lưu lạc xa đất nước
chàng lên non tìm lại thầy xưa
phong cảnh vẫn còn như thưở trước
thầy đã yên mộ một chiều mưa.
Mới hơn một tháng trước, tôi còn đứng trước căn biệt thự này, nghĩ đến bốn câu thơ trong đầu nhớ đến người thầy của mình mình ngày xưa, vậy mà giờ đã tiễn đưa thêm thằng bạn học một thời cùng với mình lang bạt, ngao du ở thành phố cao nguyên - nay đã nằm dưới mộ sâu; mai này rồi cũng đến phiên mình chẳng khác gì như đám mây trắng đang bay ở trên trời, thoáng chốc sẽ tan vào hư vô.

SVT
1/25/2015
Về đầu trangHành Trình Về Đà Lạt - V
Trần Văn Sanh

Bất cứ cuộc hành trình nào, cũng như một đời người, đều có khởi nguồn và trạm dừng chân cuối cùng. Tôi sinh ra ở giữa lòng Hà Nội, theo bố mẹ lang bạt vào Nam và hầu như hơn 20 năm lớn lên và trưởng thành ở Sàigòn - chỉ một khoảng thời gian ngắn 73-74 là tôi đã tình cờ lên và ngụ ở Đà Lạt - rồi sau đó theo làn sóng di dân ra nước ngoài năm tháng Tư năm 1975.
Nếu bảo rằng đương nhiên tôi phải có nhiều kỷ niệm ở Sàigon hơn tất cả mọi nơi thì không sai mà cũng chẳng là đúng hẳn. Lý do là vì như người ta thường nói "phẩm hơn lượng", nghĩa là những gì đáng nhớ vẫn là những kỷ niệm quan trọng và mang ấn tượng thật sâu đậm, còn lại chăng phần lớn của dĩ vãng cũng chẳng có gì nhiều để đáng nhớ, thêm vào đó Đà Lạt đã là nơi đưa tôi đã gặp một người và đã đưa tôi vào một khúc quanh lớn nhất trong đời, chính vì thế mà tôi thường hay nhắc, hay kể về những chuyện kỷ niệm ở Đà Lạt hơn là ở Sàigòn, và nhất là đó sẽ là bến đỗ cuối cùng của đời mình.
Chuyến về Đà Lạt vừa qua đã khiến vợ tôi gặp lại được người bạn học cũ sau hơn 45 năm không gặp, còn tôi - tôi cũng không ngờ có ngày gặp lại Chi, một "nhóc tì" hàng xóm của Hoàng Như Sơn năm đó hình như Chi cũng chỉ vừa mới 12, 13 tuổi, và gặp luôn cả Dung - cô bạn học cùng lớp mà không hiểu sao, xưa tôi vẫn nghĩ cũng chỉ là một "cô bé má đỏ môi hồng" học cùng trường và cũng là em họ của Sơn.

Ngày gặp lại "bé" Dung ở quán Cà phê Rose, Dung nay đã là bà nội, bà ngoại nhưng tôi không thể nào không nhận ra vì Dung vẫn còn cái nụ cười hiền lành và đôi má phúng phính, đỏ hồng như ngày xưa. Rất ít người mà từ bé tới lớn - tuy qua bao nhiêu thập niên - mà vẫn không hoàn toàn thay đổi, vẫn có thể nhận ra sau bao năm xa cách, Dung là một trong những người thuộc loại người này, và ngay cả đến giọng nói cũng thế. Ngày hôm đó, tôi đã lỡ hẹn với thằng em nên không có nhiều thì giờ để trò chuyện với cô bạn học cũ, đành hẹn lại năm sau, khi tôi sẽ trở lại không những lần nữa và nhiều lần mai sau.

Nhờ Dung cho tôi biết là Chi - cô bé hàng xóm năm xưa - vẫn còn ở Đà Lạt với chồng và một cô con gái, ngày hôm sau tôi ghé đến khách sạn mà Chi hiện đang làm ở đó, nghề của Chi bây giờ là cai quản, trang hoàng hoa cho toàn thể khách sạn, nhất là trong những dịp lễ, ngày hội thảo của các công sở, v.v...Hôm trước nói chuyện với Chi qua điện thoại, trong giọng nói ấy tôi nhận ra nỗi vui mừng trộn lẫn cảm động vì không ngờ có ngày tôi đã tìm và gặp lại cô bé nhóc tì hàng xóm ngày xưa. Mấy lần đầu về Đà Lạt, tôi bỏ công lái xe lòng vòng đi tìm lại nhà của hai "nhóc tì" này nhưng hàng xóm bảo không ai biết hay đã dọn đi đâu. Ai có ngờ tôi đã đi tìm lộn địa chỉ mà Dung bảo sau năm 75 đã thay đổi, mà nhất là tôi đã quên mất đoạn đường vào nhà Sơn - chứ từ con đường Yersin rẽ vào Phạm Hồng Thái tôi còn nhớ rõ là qua cây cầu nhỏ rồi đến khúc quanh có một căn nhà trồng những cây hồng mà đến mùa thu hoạch thì trên cây đầy những trái hồng to lớn, nặng trĩu đầy cành - rồi đi một đoạn nữa sẽ đến căn nhà của Sơn, ngay cạnh bên căn nhà của gia đình Chi - bố của Chi là chú Giảng, tài xế cho TT Nguyễn Hợp Đoàn thuở bấy giờ. Chi kể lại đó là những tháng ngày tuy gia đình sống trong cảnh nghèo khó nhưng ít ra vẫn được bình an và hạnh phúc, mang lại đến nhiều kỷ niệm tuổi thơ êm đềm trong lòng.
Trong cuộc đời, buồn vui luôn lẫn lộn. Mới ngày nào gặp lại người bạn học cũ và hai cô hàng xóm năm xưa, tháng sau đã nghe tin Hoàng Như Sơn đã qua đời. Hạnh phúc và khổ đau thường luôn đi với nhau, giống như bất cứ loại phương tiện di chuyển nào mà con người đã sáng chế - như chiếc xe đạp, xe hơi và ngay cả đến xe bò cũng phải có cách để tăng tốc độ và cái để thắng.
Đau khổ là cái bàn thắng để con người có lúc phải chậm lại, tạm dừng chân - đừng để mình lỡ đi quá trớn mà quên đi những nguy nan còn rình rập ở phía trước, vì đường đời chẳng bao giờ bằng phẳng, yên ổn mãi. Tôi còn nhớ những tháng ngày đầu tiên ở Đà Lạt, đó là những giây phút thần tiên nhất trong đời của tuổi thanh niên, nhưng tôi biết chắc chắn nó sẽ không mãi mãi tồn tại, như con đường thẳng nào rồi cũng phải có ít nhất một khúc quanh. Ngay lúc đó tôi đã linh cảm đây cũng là một khúc quanh lớn trong đời, nhưng không thể nào hình dung nổi nó đã quan trọng và sâu đậm đến mức nào, cho đến khi lần trở lại Đà Lạt trong chuyến đi hai năm - 2012 - trước đây.
Một trong những ngày xa xưa khi còn đi tìm hiểu thế nào là đau khổ, thử thách đang chờ đợi mình phía trước mặt, tôi tình cờ được hội kiến một nhân vật rất bí ẩn và có những khả năng mà có người từng ví như là Khổng Minh - Gia Cát Lượng của thời Tam Quốc Chí. Được biết qua một thông tin của một nguời bạn làm báo chí, người sĩ quan được nhắc đến này mang cấp bậc Trung Úy, nghe nói là một trong những sĩ quan cố vấn, tùy tùng cho Tỉnh Trưởng ĐL, vì được giao phó, nhờ "giữ dùm" bởi lá thư của một vị tướng tư lệnh, sau chiến dịch Hạ Lào 1971(còn gọi là Chiến dịch Lam Sơn) - khi vị tướng này được tin là miền Bắc đã treo giá $5 triệu đồng (tiền VNCH thời bấy giờ) - còn sống hay chết - cho cái mạng của người sĩ quan tuy tùng này. Một trong những câu trả lời của viên sĩ quan này cho câu hỏi của tôi là bao giờ chiến tranh Việt Nam mới chấm dứt thì anh ấy bảo rằng "sẽ sớm thôi, nhưng từ Bắc chí Nam sẽ phải gặp nhiều gian truân, đau khổ". Tôi không hiểu ý nghĩa của câu trả lời này cho đến khi mình được an toàn ở trên chuyến tầu Green Wave, đem tôi rời khỏi Việt-Nam trên đường đang vào hải phận Phi Luật Tân ngày 28 tháng 4, 1975 - mới biết rằng nếu miền Nam có thắng cuộc, chỉ mất vài năm - hay cùng lắm là một thập niên - thì cả nước có lẽ đã chẳng đối diện với những khó khăn và vất vả vẫn còn kéo dài mãi cho đến giờ phút này.
Trước ngày tôi trở về Sàigòn để theo đuổi bậc Đại-Học, người Trung Úy này đã tặng tôi cuốn sách "Học Thuyết và Tư Tưởng Chính Trị của Quản Tử", và bảo rằng rất tiếc là tôi đã không còn ý định theo đuổi chuyện chính-trị, vì theo anh tôi có những cá tánh và kiến thức - biết thế nào là một chính trị gia - mà quan trọng hơn hết, khi tôi biết thế nào là "khi như rồng, khi như rắn" - một triết lý về chính trị, một cái nhìn tổng quát nhưng sâu sắc về đời người - của Quản Tử mà hơn 10 năm sau tôi mới hiểu thấu đáo ý nghĩa của nó. Có thể nói, người sĩ quan này là người đã ban tặng cho tôi một cái la bàn (compass) dùng để giúp tôi định hướng, và một cái gương soi để hiểu những góc cạnh mà người thường ít khi nhìn thấy - nói chung, đã dẫn đưa tôi vào một khúc quanh khác của cuộc đời.
Nghĩ cũng lạ, nếu nói về phương diện địa vị thì giống rồng thường ở trên vị trí cao, còn rắn thì luôn luôn ở dưới đất, thấp hơn nhiều. Nếu dùng hai quốc gia trên thế giới để biểư tuợng, so sánh một cách đại khái (trên mọi phương diện - văn hóa, quân sự, kinh tế...) mà chúng ta đã từng sống, từng trải qua thì có lẽ Hoa Kỳ và Việt-Nam sẽ là hai quốc gia mà tôi muốn nói đến.
Tạm gạt qua một bên cái huyền thoại dân Việt là dòng giống "con Rồng, cháu Tiên" (vì nếu quả thật là như thế thì tôi cũng chẳng biết có bao nhiêu loại Rồng, mà chẳng lẽ lại có loại rồng thật dỏm trên cõi đời:). Tôi không biết, mà cũng chẳng quan tâm gì về những người Việt kiều khác đã, đang và sẽ quyết định chọn Việt-Nam để về hưu, dưỡng già. Tôi cũng dư biết rằng sẽ có hai quan điểm tương phản: đồng ý và chống đối về cái quyết định ấy, vì đó chẳng qua cũng chỉ là những cái gọi là cái Âm-Dương (hay "Rồng Rắn") thường đi đôi trong mọi vấn đề - không bao giờ tách rời khỏi nhau có thế thôi. Ngoài ra, theo cái triết lý hay chiến lược của Quản Tử thì con rồng bay cao mãi cũng sẽ có lúc đáp xuống để nghỉ, còn giống rắn lúc yếu nhất - thất thế nhất - là lúc nó đang lột da để có một lớp da mới hơn, già dặn và thâm sâu hơn. Khi còn được như "rồng" thì phải hành động như giống rồng, khi mình như con rắn đang lột da, bắt đầu dần yếu đuối thì phải chuẩn bị chốn ẩn náu, nương thân. Tôi thấy có những người tuổi đã lớn, thay vì phải buông bớt những nhọc nhằn, họ lại đeo thêm những gánh nặng khác - như mở mang, khuyếch trương thêm cơ sở thương mãi, sản xuất, v.v...giống như người đang cố gắng bơi ngược dòng, chẳng mấy chốc cũng phải chóng buông xuôi, vội vã vứt bỏ những công lao vừa tạo dựng một cách thật phí uổng.

Nẫy giờ tôi nói nhiều về những thứ có vẻ như lung tung,chẳng liên quan, dính dáng đến cái đề tài "Hành trình Về Đà Lạt", nhưng thực ra đó mới chính là những nguyên do đã đưa tôi đến việc gọi là tìm về cội nguồn, mà nguồn gốc đây chẳng phải là nơi mà tôi đã sinh ra hay đã lớn lên, mà là nơi đã nẩy sinh trong tôi những khái niệm, chân lý khác thường về một đời người. Trên con đường lên Đà Lạt chuyến đầu trong năm ngoái, tôi đã gặp một ông từ California đi cùng với cô em gái từ Sàigòn, và ông kể là ông đã về hưu được vài năm, vợ ông chưa đến tuổi hưu và đã dùng hết những ngày nghỉ cho nên đã không tháp tùng theo ông về Việt-Nam chuyến này. Hỏi ông nếu có sự chọn lựa, thì ông sẽ thích được về hưu ở đâu thì ông ấy bảo rằng đương nhiên sẽ là ở Việt-Nam ; không như nhiều người khác sẽ chọn tiểu bang California, vì đó là nơi họ sẽ được hưởng mọi quyền lợi - một lời hứa của chính phủ - cho những kẻ đã từng đi làm và đóng thuế sau bao thập niên. Tôi nghĩ rằng về phần tâm linh, ai cũng muốn "hoàn toàn" đặt tin tưởng vào Chúa, vào Phật (hay những vị thần linh nào đó) mà về phần vật chất thì có lẽ họ tin tưởng nhiều hơn về lời tuyên bố của chính phủ địa phương đã hứa với họ, vì nghĩ khác hơn sẽ mang đến nhiều nỗi lo âu, khúc mắc cần phải dùng đến đầu óc để nghĩ cách giải quyết. Ít người có cái tánh tò mò và đa nghi - thuộc loại bậc thầy của Tào Tháo - như tôi cho nên chuyện đó cũng chẳng lấy gì làm lạ. Đó là tôi chưa đề cập đến chuyện sự thật đã bị che dấu, dư luận và tin tức bị bóp méo cả hàng chục năm nay khiến con người trở thành ù lỳ, sống thụ động như máy móc tìm vui trong những trò chơi, máy móc điện tử mới phát minh ra mỗi ngày. Hơn 6 thập niên trước, người ta tính rằng cứ mỗi người về hưu thì sẽ có đến 25 người đi làm để nuôi họ; rồi con số ấy dần dà thu hẹp cho đến cái viễn ảnh trong một ngày rất gần, chỉ cỡ 3 người đi làm đóng thuế sẽ phải nuôi 1 người ăn lương hưu trí - cứ như thế thì (1) một là thuế má rất cao cho những người còn đi làm, (2) hai là lợi tức hưu trí sẽ bị cắt giảm rất nhiều - có thể hơn 1/2 - giải pháp thứ ba (3) là quỹ hưu trí phải vỡ nợ, xóa sổ làm lại từ đầu mà kết quả cũng chỉ là quyền lợi bị cắt giảm trầm trọng; hoặc đó sẽ là sự tổng hợp của chuyện người đi làm phải đóng thuế cao hơn và người hưởng lợi thì sẽ bị cắt giảm một cách tương xứng. Kinh khủng hơn tất cả (4) là làm sao "xóa sổ" bớt đi những "chủ nợ", hay khiến rút ngắn lại cuộc sống của họ để đỡ phải trả tiền hàng tháng. Đằng nào thì cũng đến "La Mã" cho cái gọi là kế hoạch ăn lương hưu trí của người dân Mỹ nói chung và của Việt kiều nói riêng. Đưa ra điều này quả là sẽ chẳng mang lại lạc quan tí ti ông cụ nào cho người đọc, nhưng đó là sự thật, là những trường hợp sẽ có thể xẩy ra - ngoại trừ những chuyện bất ngờ, thần kỳ khác sẽ giúp đất nước này thoát khỏi bài toán kinh tế hóc búa mà tôi chưa tài nào nghĩ ra. Hy vọng là những điều tôi suy đoán về tương lai hoàn toàn sai lầm, vì đó là tương lai của những đứa con, cháu và thế hệ tới sẽ hoàn toàn lệ thuộc vào đó.

Trở lại chuyện trong lúc thăm dò vấn đề nhà cửa, đất đai ở Đà Lạt, tôi tình cờ được một Việt kiều từ Mỹ về đưa đi xem những miếng đất mà ông ta làm chủ và muốn bán.
Tôi không nhớ rằng câu chuyện bắt đầu từ đâu, nhưng đại khái cũng đề cập đến chuyện ViệtNam và Đà Lạt sẽ là nơi lý tưởng nhất để về sống, nhất là cho những người về hưu thích yên tĩnh. Có một điều nghịch lý là ông ta cũng vừa mới sang Mỹ, và tiết lộ rằng chỉ cần bỏ ra vài chục ngàn USD là ông ấy sẽ có thẻ xanh còn nhanh và rẻ hơn là bỏ ra $150 ngàn USD để đầu tư vào một dự án xây trường học nào đó ở bên Mỹ mà tôi đã từng thấy đăng quảng cáo trên nhiều tờ báo lá cải ở California và ngay cả ở Việt-Nam. Nghĩa là trong lúc quảng cáo, khiêu gợi những gì tốt đẹp, tiện lợi và sẽ mang nhiều sung sướng đến cho những kẻ muốn về Việt-Nam mua đất, xây nhà thì ông ta đồng thời lại muốn bán đất, lấy tiền càng nhanh càng tốt để được thoát khỏi nơi này và sống ở một nơi người ta gọi là "thiên đường hạ giới", ở tiểu bang mà mùa hè trên bãi biển thường có nhiều cô gái tóc vàng với thân hình rực lửa, thật hấp dẫn như theo lời ông kể.
Một câu chuyện của rắn nay lại muốn thành rồng và con rồng đã mỏi mệt chỉ muốn hạ cánh nghỉ ngơi không hơn không kém.

Nếu ai hỏi tôi điều gì ở Đà Lạt khi xưa đã mang lại cho tôi cái ấn tượng sâu đậm nhất thì tôi phải nói rằng đó là những giàn hoa, bụi hoa đủ loại mọc dại bên đường, cộng thêm nếp sống từ tốn, chậm rãi, rồi những con dốc lên dốc xuống, cho đến cả cái thi vị gọi là "trời thấp thật gần", tạo cho tôi cái cảm tưởng con người ở đây rất gần gũi, thân cận - không như cái ồn ào náo nhiệt ở Sàigòn, mỗi người là một hoang đảo riêng tư; thêm vào đó là cái giá lạnh của đồi núi khiến người ta có lẽ dễ gần lại với nhau hơn.
Hành trình về Đà Lạt của tôi - nếu khách quan nhìn từ cao độ trên 30,000 mét - chẳng qua cũng chẳng dị biệt gì với cuộc hành trình trong đời của bao nhiêu người khác. Cũng phải khởi đầu từ một điểm và sẽ chấm dứt ở một điểm. Khoảng cách giữa hai điểm còn tùy vào định mệnh đưa đẩy và sự hiểu biết, chấp nhận cái giá phải trả của từng cá nhân, nhưng quanh đi quẩn lại cũng chỉ bấy nhiêu - cũng chỉ là "sanh, tử, bịnh, lão". Ở Sàigòn tôi có nhiều thật, về những kỷ niệm vui buồn của tuổi thơ, tuổi mới lớn với nhiều hoài bão trộn lẫn cả những phẫn nộ trong xã hội thời bấy giờ, nhưng nó chưa đủ để khiến tôi thực sự trưởng thành cho đến khi tôi lên ở Đà Lạt. Có lẽ chính vì quá lưu tâm về những kiến thức để đời đó đã khiến tôi trở thành một kẻ rất thờ ơ - lơ tơ mơ - về chuyện tình ái, tại đầu óc lúc ấy chỉ luôn hướng nhìn về tương lai. Cũng may là nhiều hình ảnh nên thơ của Đà Lạt, nhất là những kỷ niệm lãng mạn mà tôi đã vô tình gây ra và lưu lại vẫn còn lẩn quẩn trong tiềm thức để trở thành đề tài cho những vần thơ, truyện ngắn cho tôi viết kể lại trong những ngày tha hương lưu lạc ở một quốc gia khác, nơi chốn thật xa lạ khác.

Trên con đường đời - hay bất cứ trong một cuộc hành trình nào - nếu có được một người bạn để cùng đi với mình thì đó là một diễm phúc lớn lao nhất trong đời. Thú thật là nhiều lúc tôi không hiểu chính mình đã chọn ThúyHoa - hay Thúy-Hoa đã chọn tôi - định mệnh đưa đẩy để chúng tôi trở thành hai người bạn đời, thoáng đó mà đã hơn 40 năm trôi qua. Nếu ví von đặt cho Thúy-Hoa là con rùa thì tôi là con thỏ; Thúy-Hoa nhút nhát bao nhiêu thì tôi đôi lúc lại bặm trợn, ba gai bấy nhiêu - nghĩa là hoàn toàn trái ngược nhưng nhất thiết - như cái nồi với cái nắp - thứ triết thuyết Âm Dương. Trước ngày quen tôi, ThúyHoa đi xe hơi cũng chóng mặt, đi đò thuyền cũng buồn nôn, đi máy bay cũng dễ xây xẩm...đại khái, chính hiệu con nai vàng tiểu thư Đà Lạt; lấy phải ông chồng có máu lãng tử, thích ngao du riết rồi bây giờ đã quen, cũng bụi đời, sương gió như tôi. Đã bao nhiêu lần chúng tôi đi từ Châu Đốc ra tận Hà Nội, và từ Hà Nội xuôi nam bằng đủ mọi phương tiện chuyên chở: xe buýt, máy bay, xe đò, tầu bè, thuyền, xe lửa - chưa kể tôi từng đã lái xe gắn máy đi đường xa liên tỉnh, hơn cả tiếng đồng hồ; hoặc chen chúc, len lỏi trên đường phố lớn ở Sàigòn, Đà nẵng, Huế, Hà Nội...mà ai hỏi Thúy-Hoa có cảm thấy sợ khi ngồi phía sau xe cho tôi lái, nàng thường cười cười trả lời: Quen rồi! mình cứ bình tĩnh mà...run, có thế thôi!:)
Còn tiền, còn sức, còn gân
sân chơi dẫu lớn cũng ngần ấy thôi
nằm đây mà ngẫm sự đời
thấy toàn là lỗ, mà lời cũng không!
thôi thì ta cứ cà nhông...
SVT
Về đầu trangHạnh Ngộ
Trần Văn Sanh
Nhìn cái lối ngồi đơn độc và nhàn hạ nhâm nhi ly đậu xanh mà tưởng chừng hắn ta đang tại gia, vừa ăn chè vừa xem chuyện thời sự trên màn ảnh vô-tuyến. Tự dưng nàng thấy hắn có vẻ gì lạ lùng, quyến rũ sự chú ý của nàng trong lúc cả phòng đầy nhóc người chuyện trò, ồn ào tựa hồ không ai biết sự hiện diện của nàng. Hôm ấy chả hiểu Kiều đã hết mục du hí hay sao, khi không lại nổi hứng lôi nàng đến để dự buổi họp bầu cử ban đại diện Việt kiều của thành phố Woodville. Trong lúc sửa soạn áo quần, thấy bộ mặt ngần ngại, lưỡng lự của nàng. Kiều nhún vai tỉnh khô:
- Biết đâu mình gặp Mr. Right. Chừng đó sẽ thiếu gì mục vui. Hay bồ muốn tui mướn thêm bộ phim Đại-Hàn nữa rồi hai đứa “luyện” suốt cuối tuần?
Nàng nghe vậy bèn lắc đầu vô ý kiến. Mặc cho người bạn gái ở chia phòng liếng thoắng ra vào thay đổi áo quần, ướm thử nữ trang có đến cả chục bận và vẫn chưa hài lòng. Còn nàng chỉ xỏ vội cái quần jean và tròng chiếc áo len cao cổ vào đầu, thế là xong. Kiều nhìn lối ăn mặc của nàng, sửng cồ chê loạn xạ:
- Bồ thiệt là dị! Đàn bà con gái gì mà ra đường không có tới chút son phấn. Người ngợm lúc nào cũng cứ như là tomboy ấy! Đi với bồ riết có ngày thiên-hạ tưởng hai đứa “lại cái” thì có nước ế chồng cả lũ … Đến nơi họp và gặp chàng. Nàng không ngờ câu nói đùa “… gặp Mr Right” của Kiều trước đó không chừng biết đâu vậy mà thành sự thật. Xưa nay nàng vẫn tưởng việc hội họp, bầu bán hội đoàn chỉ toàn mấy ông bà già trầu, hết chuyện gẫu đâm ra kiếm cớ để tụ tập, bù khú. Nàng thắc mắc không hiểu tại sao mẫu người trẻ trung, có vẻ chịu chơi như hắn lại có mặt ở chốn này.
Chẳng lẽ hắn cũng bị bất đắc dĩ kéo đi như trường hợp của nàng? Nhất định rằng không phải thế. Nàng đã “vô tình” để ý từ lúc hắn vừa đặt chân vào cửa. Dáng điệu hắn khi ấy ung dung, nhàn nhã. Và thật tự-nhiên, hắn ghé qua bàn tiếp tân để lấy một ly chè, một miếng bánh ngọt rồi kiếm ghế ngồi thưởng-thức vừa nhìn thiên-hạ. Thỉnh thoảng nàng thấy hắn chào hỏi với vài người dường như lạ mặt. Có lúc hắn đảo mắt nhìn quanh quất như muốn tìm kiếm một khuôn mặt quen thuộc nào đó. Hễ mỗi lần thấy hắn sắp sửa quay về hướng mình thì nàng vội xoay người lẩn tránh, làm như đang hỏi chuyện với Kiều. Con nhỏ bạn tinh quái có lẽ đoán được hành động của nàng từ nẫy giờ, đứng cạnh huých nhẹ cùi chỏ bên hông:
- Trông “sạch nước cản” ghê đấy chứ. Nẫy giờ đá lông nheo với hắn mãn nhãn chưa bồ.
- Đồ khỉ. Nói nho nhỏ chứ!
Nàng gắt nhẹ. Trong phòng khánh-tiết đủ mọi tiếng trò chuyện, vậy mà chả hiểu chàng có nghe được cái giọng oang oang của Kiều. Cuối đuôi mắt liếc vội, nàng chợt thấy chàng nhẹ nhàng đặt ly chè xuống bàn rồi ngồi quay hẳn về phía hai người. Tưởng tượng có ánh mắt đang nhìn khiến đôi má nàng nóng ran và tay chân bỗng trở nên vụng về, thừa thãi. Khi không vậy đó mà nàng “yếu tim” một cách kỳ cục. Còn Kiều thì … trời đất! Con nhỏ hiên ngang đứng cười cầu tài với chàng như thách thức. Nàng không dám quay lại để xem chàng có cử chỉ gì để đáp ứng. Chỉ sợ chàng mang cái ấn tượng hiểu lầm chắc hai người ế ẩm, tình đến đây để dụ khị mấy ông già thì thật là xấu hổ. Nghĩ thế nàng toan níu áo Kiều, tính lôi con nhỏ bạn lẩn vào bếp, luôn tiện kiếm đồ uống tráng miệng thì một người đàn ông đứng tuổi ở cuối phòng chợt vỗ tay để gợi sự chú ý của mọi người, bảo đã đến giờ khai mạc và mời mọi ngươì vào hội-trường.
Nàng thở phào, tưởng đã thoát nạn. Bước đi chưa tới cửa, nàng chợt nghe một giọng Bắc ấm áp rót nhỏ bên tai:
- Khiếp! làm như ta đây đẹp dữ. Trông thâý mà … mê!
Nàng chưng hững quay đầu nhìn lại. Chả biết câu nói ám chỉ ai nhưng hắn ngay sau lưng từ hồi nào mà nàng chẳng hay. Khuôn mặt nhìn gần khá khôi ngô, trông tỉnh queo, ngoại trừ đôi mắt trong sáng như đang mỉm cười muốn trêu ghẹo với nàng. Một ý tưởng nhận xét thoáng qua trong đầu cho nàng biết tên này cũng thuộc tay không vừa. Kiều vẫn sát cánh đi bên nàng chắc nghe được câu nói của hắn, cô nàng bèn vội vàng trả đũa liền khi:
- Rồi sao?
Sau này nàng nghĩ, có lẽ tại vậy mà hắn - giờ tạm gọi là chàng - đã “chấm điểm” nàng thay vì Kiều từ cái buổi gặp gỡ ấy. Ban đầu nàng lầm tưởng (theo lời chàng kể là sinh-viên du học hồi 1969) chàng đã quên cách nói chuyện, tán gái. Chừng quen nhau một thời gian, nàng và Kiều mới rõ chàng thỉnh thoảng có kiểu đàm thoại thật ngộ nghĩnh và rất là… huề vốn. Phải tinh-tế, quen thuộc lắm mới bắt kịp những ẩn ý chàng thực-sự muốn nói. Chẳng hạn như lúc khen dáng nàng đẹp, hấp dẫn. Chàng bảo:
- Kể cũng “hấp thụ” (hoặc “hướng dẫn”) thiệt!
hay:
- Đừng lầm tưởng nghe. Cái mặt này trông khờ khờ vậy chứ mà… ngu ác!
- … - Đối với anh dễ ợt. Có cũng được mà không có cũng…không được.
Câu tán đùa cợt của chàng bữa hôm đó cũng làm nàng ngớ ngẩn một chập rồi mới kịp hiểu ý nghĩa của nó. Mặc dầu nghe chàng nịnh như thế, nhưng nàng vẩn có thói quen “trừ hao” những lời đừơng mật ấy như của bao chàng trai, đàn ông khác đã từng theo đuổi nàng. Đàn ông nào mà chả vậy. Nàng nghĩ bụng. Dù sao, chàng được cái là không “dê” nàng một cách dai dẳng, vụng về. Nhưng lối làm quen của chàng hơi ngang tàng và thật là táo bạo. Nàng còn nhớ sau phiên họp bầu cử mọi người tản mác ra về. Chàng cố ý nấn ná chờ cho nàng và Kiều bước gần tới cửa để chận đường kiếm chuyện. Kiều đã tinh nghịch hỏi một hơi về gia-cảnh, lý lịch của chàng thiếu điều như cảnh-sát hỏi giấy tờ căn cước, sổ gia-đình. Con nhỏ này hay có những đòn đánh phủ đầu như thế để tuỳ theo phản ứng của đối phương đặng dễ bề “bắt mạch” rồi bắt nạt. Thường thì nàng gặp vài người ấp úng, rụt rè hoặc đâm ra ăn nói lố bịch, có tính cách sàm sỡ sau vài chiêu giao-hảo của Kiều. Riêng chàng vẫn bình tĩnh, cười mũi:
- Tiếc rằng lần này tôi lại không mang theo resume. Hay là cho tôi địa chỉ để hôm nào tôi mang đến tận nhà?
Nghe câu trả lời, Kiều quay nhìn nàng như ngầm đồng ý với sự nhận xét của nàng khi nẫy.
Chàng không những vừa khéo léo né tránh câu hỏi của Kiều mà lại còn gián tiếp muốn biết chỗ ở của hai người. Kiều vẫn chưa chịu thua, hỏi vặn:
-Ông muốn địa chỉ của bạn tôi hay của tôi?
-Ồ! nếu được cả hai thì còn gì bằng.
Cả nàng cùng Kiều cùng lắc đầu, bật cười sau câu trả lời của chàng. Không ngờ chàng ăn nói lanh lợi, cái miệng dẻo quẹo như vậy mà vẫn còn độc thân, chưa lập gia đình. Nàng thoạt tiên đã đoán chàng chỉ độ ba mươi là cùng. Nhưng những hôm chàng lười cạo râu, hoặc có vẻ buồn, nghiêm nghị thì nàng lại thấy chàng như một ông già hơn … bốn chục. Thực tế chàng tuổi Nhâm Thìn, cầm tinh con rồng, vị tất mới hơn ba mươi sáu, ba mươi bẩy. Đàn ông từng trải như chàng mà vẫn chiếc bóng – thành thật mà nói – kể cũng hơi… nghi. Kiều đã công nhận với nàng về điều này. Cô nàng còn doạ:
- Biết đâu vợ con người ta cả đống đang kẹt lại ở Việt-Nam. Cỡ như hắn thế nào mà chả có người xỏ mũi, cột dây từ khuya!
Câu nói đôi lúc làm nàng bỗng phân vân, bối rối. Dạo gần đây, mặc dù chàng tỏ vẻ săn sóc, chiều chuộng nàng rất mực. Nhưng nàng thấy hình như tình cảm giữa hai người vẫn còn lẩn quẩn ở trong cái khoảng cách mơ hồ giữa tình yêu và tình bạn. Chàng chưa hề một lần tỏ tình rằng đã yêu nàng. Quen nhau cũng đã gần một năm mà nàng thấy chàng vẫn còn là một điều gì bí ẩn, khó đoán. Đại khái nàng chỉ biết (theo lời chàng kể) gia đình chàng gồm bà mẹ và mấy đứa em – có đứa đã lấy vợ, lấy chồng – bây giờ đang ở Texas, còn chàng năm ngoái tình cờ ghé đến đây thăm người bạn học cũ. Chàng nói khí hậu và phong cảnh ở đây thật giống ĐàLạt làm chàng đâm ra thích tiểu bang này nên đã trở lại và xin được việc trong một hãng quảng cáo khá lớn trên phố. Hôm gặp nàng ở buổi họp bầu cử, chàng nói tại do lời rủ rê của người bạn. Rốt cuộc bạn của chàng phút chót sở gọi vào làm khẩn cấp nên không đến. Chàng bảo nàng có nét ngô nghê và … làm tàng giống hệt người bạn gái hàng xóm của chàng thuở nhỏ ở Gia-Kiệm. Sẵn dịp nàng liền hỏi về chuyện tình cảm của chàng trong quá khứ. Chàng nhún vai cười nhẹ, nói tất cả ngày xưa chỉ là những đam mê vụng dại của tuổi mới lớn. Chả có cuộc tình nào gọi là đáng kể. Nàng nửa đùa, nửa thật:
- Thông minh, đẹp trai như anh mà tới giờ vẫn “không có gì đáng kể” thì coi bộ hơi khó tin à nha!
Chàng vẫn dịu dàng:
- Anh nói thật đấy. Tin hay không tuỳ Loan.
Rồi nghĩ sao, chàng lại đùa:
- Em phải biết càng đẹp trai là càng “hồng nhan bạc phận”! Cô nào cũng tưởng mình chắc hẳn đã có bồ nên chả ai thèm xía vào. Thành thử bị ế hoài!
- Úi cha! Nghe mà phát tội nghiệp… Nàng buồn cười cái vẻ mặt làm bộ thảm não và câu nói phân trần của chàng. Rồi trong lúc tình cờ, nàng chợt nhận ra một điều là mỗi lần gặp chàng hình như nàng lạc quan, yêu đời hơn lúc chàng chưa đến. Có lẽ chàng khéo gợi chuyện, lẫn máu khôi hài khiến nhiều lúc đã làm nàng và Kiều cười đến đau bụng. Tài tình nhất là chàng thỉnh thoảng còn đoán được đầu óc nàng đang nghĩ gì – những thói mà con gái thường e thẹn ít dám thú nhận trước mặt đàn ông, con trai – để có khi thấy chàng tủm tỉm cười một mình, hoặc tự động làm mà không cần nàng phải nói đến một tiếng. Nàng nhớ một buổi tối trời mưa. Trận mưa kéo dài cũng có đến hai, ba ngày. Nàng và Kiều chán TV, chán đọc đống sách báo, ngồi nhìn trời mưa ngoài khung cửa. Tán gẫu với nhau đưa đẩy thế nào tới chuyện ngày xưa thời còn là nữ-sinh thích mua quà, ăn vặt ở ngoài chợ hay trước cổng trường. Nhắc làm chi để mỗi người lại đâm ra thèm một ly đậu đỏ bánh lọt và vài cái cuốn bò bía như chiều xưa giờ tan học ở Gia-Long về. Đang chắc lưỡi tưởng tượng đến cái vị mằn mặn, cay cay của bò bía rồi uống từng ngụm chè trộn nước cột dừa ngọt lịm loang dần xuống cuống họng, bao tử, nàng chợt nghe tiếng gõ cửa và giọng của chàng gọi ơi ới, gấp rút:
- Loan, Kiều ơi mở cửa hộ anh. Có đồ giao hàng đặc biệt đây!
Nàng hơi ngạc nhiên, vì thường thường chàng hay gọi điện thoại báo trước khi đến. Vả lại, hai người mới nói chuyện sáng hôm ấy thôi chứ lâu lắc gì cho cam.
- Từ từ đã nào. sao bữa nay làm gì mà ông lại nổi hứng đến bất tử rồi hối người ta loạn cào cào vậy!
Kiều nhanh chân chạy ra mở cửa, vờ gắt nhẹ. Chàng hai tay ôm hai bao giấy to tướng, không trả lời câu nói của Kiều mà đi thẳng vào nhà bếp, vừa đi vừa hất đầu ra dấu cho nàng và Kiều theo chàng:
- Vào đây là biết ngay. Mấy hôm nay trời mưa tôi đoán hai cô nương ở nhà buồn sẽ thích mấy món này… Đoạn chàng tự nhiên bầy ra những thứ trong bao giấy để lên bàn. “Ối cha! thiệt tình trúng ý quá ta ơi!”. Đâu đấy chưa xong đã nghe Kiều reo mừng khi thấy nào là dĩa bánh cuốn, bánh xèo, bánh dẻo, bánh bò…. và cả đến năm, sáu ly chè. Mỗi ly một thứ. Trong đó có hai ly đậu đỏ bánh lọt mà nàng với Kiều vừa thèm nhắc đến.
- Nè Loan ơi, tui nghi ông Sơn gắn máy nghe lén ở nhà mình. Chứ sao mà tài tình, biết ngay chóc mình đang thích mấy món này hở?
Nàng không trả lời, chỉ cười cười nhìn Kiều đang khoải tỉ lựa vài món hợp nhãn cô nàng. Việc chàng làm đã chẳng lạ gì đối với nàng. Đôi khi chàng như đi guốc trong bụng người khác mà họ không biết. Nàng có lúc hãnh diện về sự thông minh, tinh quái của chàng, nhưng nàng cũng hơi ớn vì tưởng tượng rằng chàng có thể đọc rõ, phân tách được tâm hồn nàng mỗi khi đối diện nói chuyện. Nàng cười thầm đôi lúc tự ví mình như một con mèo ngoan, thuần thục dưới đôi mắt thôi-miên và tài điều khiển của người làm ảo-thuật. Không còn sự chủ động để người đàn ông muốn theo đuổi nàng phải quay quắt, khổ sở chiều chuộng. Con voi nào cũng có thằng nài.
Nàng đã gặp một tay kỳ-phùng địch thủ. Mà đàn bà kể ra cũng tham lam và mâu thuẫn. Thích được đàn ông săn đón, nuông chiều vâng lời gần như nô lệ, nhưng lại đem lòng yêu, dâng hiến cho kẻ chinh-phục mình một cách khôn khéo, ngang tàng. Có lẽ nàng thuộc về mẫu đàn bà thích chọn cái “thú đau thương” ấy. Chỉ riêng con người của chàng mới thật là khó đoán. Nàng nghĩ đến những người từng theo đuổi nàng trước đây. Họ hoàn toàn như phơi bầy cả linh-hồn của họ cho nàng toàn quyền quyết định. Chàng trái lại không. Đôi lúc nàng cảm tưởng chàng lạnh lùng theo kiểu “theo tình tình phớt, phớt tình chàng… lờ luôn!”, mặc dù chàng chẳng hề làm bộ, làm tàng với nàng bao giờ.
**** Đến trước cửa phòng, nàng đặt bao đồ đi chợ xuống đất đoạn bấm chuông hai tiếng. Trong lúc chờ đợi, nàng đứng chải sơ lại mái tóc hơi rối vì một cơn gió bất ngờ khi nàng băng qua đường.
Gần hai tuần không thấy chàng ghé chơi, hỏi thăm khiến nàng hơi lo âu, thắc mắc. Tối hôm trước thử gọi điện thoại cho chàng thì quả thật, nàng nghe giọng trả lời qua điện thoại của chàng có vẻ khan rè, mệt nhọc. Chàng bảo bị cúm nằm nhà hơn tuần lễ nay. Tưởng chỉ ốm xoàng độ một hai hôm nên không muốn cho nàng biết. Ai ngờ cơn bệnh kéo dài. Đang nằm nhà ho sù sụ, suy nghĩ không biết nàng và Kiều có bị cái bịnh dịch cúm đang hoành hành trong thành-phố thì đúng lúc nàng gọi. Nàng nghe vậy xót xa, hình dung chàng một mình nằm co ro buồn tênh không người chăm sóc. Rồi đâm giận ngang là tại sao không cho biết để nàng lo dưỡng bệnh cho chàng. Nàng nói mỗi ngày sau giờ tan sở, nàng sẽ ghé chợ mua chút ít thức ăn đến để dọn dẹp, nấu nướng hộ chàng ít hôm cho chàng mau lành hẳn. Chàng từ chối là nàng sẽ giận luôn và khỏi thèm gặp mặt. Bên kia đầu giây, tiếng chàng mừng rỡ, nói trong cơn ho ngắt quãng:
- Tưởng gì! chứ điệu này thì anh “OK” cả hai tay. Vậy là bắt đầu từ ngày mai anh sẽ ngóng quà đi chợ của em đấy nhé ….
Chàng mở hé cửa, thấy bịch đồ ăn tính bước ra xách vào cho nàng. Nhưng nàng đã vội dành lấy.
Bảo chàng phải cữ ra ngoài, tránh gió máy thì mới chóng khỏi. Ốm mới mấy hôm mà trông chàng gầy hẳn. Nàng nhìn bộ râu chàng không cạo, mọc lởm chởm vô trật tự, bèn cười:
- Bộ mặt anh bây giờ mà đi tán gái thì con người ta sẽ khóc thét!
- Vậy chứ, có lần ai xúi anh để râu cho "người ta” ngắm chơi.
- Để râu tỉa chưa ai nói để mọc lộn xộn, bê bối như vậy! Mà thôi, cái tướng anh để râu trông… dê tổ. Nhìn thấy kỳ gì đâu!
Chàng cười lớn:
- Người ta bệnh muốn chết mà em nói phải lo vấn đề râu ria, nhan sắc thì chịu thật!
Nàng lườm chàng một cái như dao sắc. Ra vẻ không muốn kéo dài, đôi co về bộ râu của chàng.
Kiều hễ mỗi lần tranh luận, bàn cãi với chàng cô nàng bị đuối lý chỉ dơ tay tuyên bố một câu:
“You gàn!”. Vừa cười vừa ấm ức. Đôi lúc chàng cũng làm nàng ghét tệ. Nhưng chẳng bao giờ giận chàng được lâu. Khổ là khổ chỗ đó. Nàng cất đồ đi chợ vào tủ lạnh. Đặt một nồi cháo trắng với vài lát gừng và nêm chút muối tiêu. Đoạn nàng băm vài cọng hành lá xắt nhỏ, trộn với chén cháo nóng để chàng ăn cho toát mồ hôi, giải cảm. Trong lúc nàng dọn dẹp làm bếp, chàng vẫn lẩn quẩn bên cạnh trò chuyện, hoặc kéo ghế ngồi nhìn ngắm nàng. Thỉnh thoảng sự im lặng của chàng làm nàng cảm thấy hơi ngượng. Hôm gọi điện thoại tình nguyện đến làm việc “từ-thiện”, nàng đâu hề nghĩ đến cảnh tượng nàng loay hoay nấu nướng, bếp núc như một người vợ lo cơm nước cho chồng. Nó gợi cái “biological clock”, một thứ “đồng hồ tự động của cơ thể” mang sẵn trong người nàng – cái bản năng làm vợ, làm mẹ của người đàn bà – khi không bỗng trỗi dậy, mong ước thứ hạnh phúc gia đình đầm ấm. Có lẽ chàng đoán được ý nghĩ trong đầu của nàng hay sao mà nàng thấy chàng cười tủm tỉm hoài. Cái miệng chàng cười hơi trề phát ghét, trông muốn… cắn! Nàng phải giả bộ đuổi chàng vào phòng nằm nghỉ, không thì dám có lúc nàng sẽ đòi chàng hôn mình. Mặc kệ cho cái bệnh cúm. Nàng đâm ra cóc ngán lây cái bệnh của chàng. Cùng lắm nàng sẽ bắt chàng phải hầu nàng để đền bù. Chỉ sợ chàng muốn nàng ở lại tối nay thì nàng không biết đường nào mà trả lời!
Công việc bếp núc xong đâu đấy, nàng mới có dịp quan sát căn phòng trọ của chàng. Ngoại trừ nhà bếp hơi ngổn ngang, bừa bãi. Kể ra độc thân như chàng ở cũng khá ngăn nắp, tươm tất.
Phòng khách chỉ vỏn vẹn cái bộ sa-lông và chiếc ghế xếp. Chàng có cái TV nhỏ hiệu Sony, có lẽ vừa sắm hay sao, vẫn còn mới toanh chưa dính tí bụi. Kệ sách của chàng toàn những quyền dầy cui, nghiên cứu về kinh-thánh, tôn-giáo và triết học. Trên đầu giường trong phòng ngủ, nàng thấy treo một cây thánh giá nhỏ bằng gỗ và chuỗi tràng-hạt mầu trắng ngà. Không ngờ chàng lại là dân Công-giáo sùng đạo. Từ lúc quen nhau, nàng chưa hề nghe chàng mở miệng nói về vấn- đề tôn-giáo của chàng bao giờ. Thốt nhiên, nàng bỗng nhớ lời của bố nàng này xưa dặn dò, phê bình về những “đức tính” của người đàn ông, con trai mà ông cụ không muốn nhận làm con rể:
- Thứ nhất bắc-kỳ di cư, thứ hai Công-giáo, thứ ba dài lưng tốn vải… nhớ tránh tất cả nghe con!
Nếu bố nàng còn sống mà biết nàng yêu chàng hội đủ cả ba điều kiện, chắc ông cụ sẽ than trời như bọng. Con gái lớn lên lấy chồng có đạo, theo ý ông, coi như mất đi người lo nhang đèn, thờ cúng ông bà, tổ tiên. Nàng bây giờ chỉ lo cho những ngày còn nghe được hơi thở của mình. Cuộc đời này đã quá nhiều trầm luân, trắc trở. Hơn nữa người Mỹ đang cố gắng dẹp bỏ vấn đề kỳ thị, không sẽ nàng lại đem cộng thêm vào một vấn đề rắc rối nữa!
Vừa khỏi bệnh mới một, hai hôm, cuối tuần chàng lại rủ nàng đi chơi Newport. Thành phố nhỏ ngay ven biển cách đây chỉ độ hơn hai giờ đồng-hồ lái xe. Nàng hỏi bộ chàng không sợ mệt, ốm trở lại! Chàng âu yếm nhìn nàng, nói giọng tự tin:
- Đã có người “từ trong tranh”lo cơm nước, thuốc men cho anh rồi thì còn sợ gì nữa hở?
Nàng cảm thấy sung sướng nhưng vẫn giả vờ:
- Thôi đi ông tướng quảng-lạc. Bộ người ta lao động “chùa” hoài sao!
Chàng đáp lững lờ:
- Yên chí. Có dịp thuận tiện rồi anh sẽ đền công. Chỉ sợ Loan không thèm.
Mấy lần đi chơi trước với chàng, dài lắm là chỉ một chuyến sáng đi chiều về. Kỳ này chàng bảo ở lại đến hai ngày. Nghĩa là hai người sẽ ngủ đêm ở khách sạn. Chừng như sợ nàng e ngại từ chối, chàng vội vàng trấn an:
- Loan đừng lo. Anh đã thuê phòng hai giường ngủ. Chỗ ai người ấy nằm. Hay là Loan muốn riêng một phòng để anh gọi lại đặt chỗ?
Nếu còn ở Việt Nam chắc chả bao giờ chàng dám “dụ khị” nàng đi chơi như thế này. Con nhà đàng hoàng ai lại nhận lời ngủ lại đêm với đàn ông! Nhưng xã-hội Mỹ thì khác. Nàng thấy mình đã “tiến bộ” vượt bực, so với tuổi hò hẹn lén lút của tuổi tròn trăng – bẩy, tám năm về trước.
Vậy mà Kiều chê nàng vẫn còn hũ lậu, hoài cổ. Nàng nghĩ đến bộ mặt há hốc, kinh ngạc của Kiều khi nghe nàng bằng lòng đi chơi xa với chàng. Phen này Kiều sẽ hết dám chê nàng cù lần, là bà già non, cả quỷnh… Còn chàng thì dĩ nhiên mừng rơn. Dặn dò rằng sẽ đón nàng sau giờ tan sở rồi lái xe một mạch thẳng đến Newport. Khách sạn chàng thuê nằm ngay sát bờ biển. Từ căn phòng của hai người, mở cửa chỉ vài bước là ra ngay bãi cát. Chiều thứ sáu, lúc đến nơi thì trời đã bắt đầu nhá nhem tối. Sau khi làm thủ thục giấy tờ và nhận chùm chìa khoá, vừa mang đồ vào phòng xong đâu đấy chàng đã kêu đói bụng. Hai người bách bộ ghé một tiệm chuyên bán đồ ăn biển ở cuối đường. Chàng nghe nói chủ-nhân – kiêm đầu bếp – ở đây nấu theo kiểu Pháp ngon có tiếng. Chàng gọi mỗi người một dĩa cá halibut tẩm gia vị chiên bơ, lẫn nguyên hai con tôm hùm hấp nóng ăn với bánh mì tây, sà-lách và hai ly rượu vang đỏ uống khai-vị. Trong lúc chờ đợi, chàng tâm sự, hễ mỗi lần ghé thành phố nhỏ nào miền biển, chàng đều nhớ về những năm tháng chàng còn ở trong chủng-viện thánh Giu-se ở Vũng-Tầu. Nàng ngạc nhiên, đoán không lầm hình như chàng kể gia đình chàng di-cư vào Nam và lập nghiệp sống ở Gia-Kiệm.
Nhất là chuyện chàng thích cô con gái hàng xóm thưở nhỏ cột mái tóc đuôi ngựa (cái gì còn có thể quên được, chứ chuyện này vẫn làm nàng hơi ấm ức, nhớ hoài!):
- Anh ở Vũng-Tầu hồi nào. Sao Loan không hề nghe anh nói đến?
Trước sự thắc mắc của nàng, chàng có vẻ suy nghĩ, ngập ngừng trong giây lát, rồi ngồi thẳng người nhìn nàng một cách nghiêm trang:
- Luôn tiện Loan hỏi, anh có điều muốn cho em biết rõ quá khứ của anh… Nghe nói nàng bỗng đâm ra hồi hộp. Linh tính báo cho nàng câu chuyện ít nhiều sẽ liên-hệ, ảnh hưởng đến tình cảm giữa hai người. Nàng cảm thấy giọng của chàng như xa vắng khác thường:
- Năm anh lên mười, gia đình đem gởi anh vào trường dòng ở Vũng-Tầu. Nguyên do là lúc sơ sinh, bác sĩ bảo anh bị nghẹt một mach máu gần tim và một lá phổi quá nhỏ vì sanh thiếu tháng. Nghĩa là anh chẳng có hy vọng sống. Bố mẹ đã khấn dâng anh cho thiênchúa và cầu chỉ được nuôi dưỡng đến lớn để anh đi tu làm con chiên của ngài.
- Ủa! té ra anh là … Nàng bàng hoàng với cái ý nghĩ thoáng qua trong đầu.
- Khoan. Loan cho anh nói hết.
Chàng khoát tay ra dầu để chàng được tiếp tục:
- Rồi mọi người không ngờ rằng anh sống sót. Bảo chỉ có phép lạ mới được như vậy. Ở nhà cho đến năm mười tuổi, anh từ giã gia đình, bạn bè theo bố mẹ xuống Vũng-Tầu xin vào dòng thánh Giu-se. Hồi nhỏ nghe nói đi tu về làm cha xứ, oai quyền và được giáo dân đem cho nào là cây nhà lá vườn đủ thứ thấy thích lắm. Lớn khôn một chút, anh thấy trách nhiệm của người linh-mục quả nặng nề và cuộc đời không dễ dàng, bình yên như anh tưởng. Anh ở đó cho hết năm thi đậu tú-tài rồi cha bề trên xin được học bổng để anh xuất ngoại du học … Câu chuyện chợt ngưng giữa chừng khi chàng thấy chủ-nhân bưng khay thức ăn đặt trên bàn.
Nẫy giờ chăm chú, tò mò nghe chàng kể, nàng quên khuấy cái bao tử. Bây giờ trông thấy mấy món ăn vừa nấu xong còn nóng hổi, khiến nàng cảm thấy thực sự đói bụng. Nhất là sau khi nhấm nháp vài ngụm rượu khai-vị. Chàng chiều chuộng dành gở hộ nàng cái vỏ tôm hùm. Xong đâu đấy, chàng nâng ly rượu mời. Giữa lúc hai người ngồi ăn, nhìn nét mặt thỉnh thoảng dò xét, chờ đợi của nàng, biết nàng đang nóng lòng muốn nghe nốt câu chuyện bỏ dở. Chàng hóm hỉnh, đùa nghịch:
-…và năm ngoái tình cờ gặp Loan rồi bây giờ hai đứa mình ngồi đây ăn uống. Hết!
- Xí. Cái mặt anh xạo trông biết liền. Kể tiếp đi, không thì em “tuyệt mạng” (ý là tuyệt-thực ) à!
Nàng trề môi nhái kiểu đàm thoại của chàng. Nhấp thêm một ngụm rượu, chàng cười giọng trầm tĩnh:
- Nói ra nghe “cải lương”. Nhưng nếu cuộc đời đừng có gì thay đổi thì bây giờ anh đã là linh-mục coi sóc một nhà thờ trong giáo-phận nào đó ở quê nhà. Đầu năm 1975 anh sắp sửa ra trường và đang chuẩn bị để trở về nước sau khoá học mùa hè. Đùng một cái đến ngày 30 tháng tư. Nước mất nhà tan. Không còn liên lạc với toà-thánh hay cả với gia- đình. Anh phải tạm ra đời tự kiếm việc mưu sinh. Thời gian ấy nhiều hoang mang, xáo trộn đã đến với anh một cách như thúc bách, dồn dập. Anh bỗng có cái nhìn, quan niệm khác về cuộc sống của mình. Chẳng phải vì lòng tin của anh đã soi mòn, gẫy đổ. Anh cho rằng cái ơn kêu gọi ngày xưa hình như chỉ là một giai đoạn để rèn luyện cho mình khỏi bị sa ngã. Anh bắt đầu cảm thấy sự cô-đơn và thèm có một người bạn đời để chia sẻ, tiếp tục cái sứ mệnh con người của thượng-đế. Bởi vậy sau này khi gặp lại vị giám-mục đỡ đầu đã giúp anh trong thời gian du học, anh trình bầy ý tưởng của mình và xin ngài cho một thời gian để anh được tĩnh-tâm, cầu xin chúa soi sáng cho những quyết định của đời mình. Ngài tỏ ra rất cảm thông và chúc lành cho anh. Khuyên anh nên đi xa, tìm chốn yên tĩnh mà suy ngẫm. Tình cờ lúc ấy anh lại được thư của người bạn cũ ở trên này… Chàng kể đến đây rồi ngập ngừng im lặng. Tưởng chàng ba gai, tính trêu ghẹo để nàng tò mò, hỏi tới sự việc chàng đã quyết định ra sao về cuộc đời của chàng. Nàng toan phớt lờ, tỉnh bơ giả vờ quay về hướng cửa sổ, nhìn mặt trời đang lặn dần xuống bên kia bờ Thái Bình Dương và xem chàng phản ứng như thế nào. Nhưng chợt thấy chàng loay hoay, lôi ra trong túi quần một gói nhỏ trông như hộp quà bao giấy rất cẩn thận. Rồi chàng với người cầm đặt nó vào giữa lòng bàn tay nàng:
- Có món này riêng cho Loan. Định chờ đến hôm trước khi về sẽ đưa, nhưng ngay bây giờ anh thấy thật tiện lúc.
Mặc dầu đoán lờ mờ được phần nào bên trong gói ấy có gì, nhưng nàng vô cùng bỡ ngỡ và nhạc nhiên khi thấy cái nhẫn kim-cương nhỏ nhắn, xinh xắn trong hộp vải nhung mầu xanh đậm.
Nàng tưởng đâu sẽ chỉ là sợi dây chuyền, đôi bông tai, hoặc cái kẹp tóc mà nàng đang cần. Ai dè chàng lại sang trọng, hào hoa đến thế. Nàng phân vân, đang lúng túng không biết nên khen cái nhẫn đẹp hay hỏi chàng ý nghĩa của món quà tặng đắt tiền này. Như đọc được tư-tưởng của nàng, chàng khẽ mỉm cười và cất giọng ôn tồn dịu dàng:
- Cái nhẫn đó dùng để sửa soạn cho vấn đề quan trọng mà anh sắp nói: Loan nghĩ sao khi anh muốn hỏi em làm vợ?
-“Oh my gosh! “ Nàng khẽ thốt lên, xong liền đưa tay bụm miệng lại. Nhìn nét mặt trang nghiêm của chàng, nàng biết không phải chuyện đùa. Phải chi nếu là người Mỹ chính gốc thì nàng đã ôm hôn chàng cái chụt và trả lời “I do” một cách sung sướng, không e dè ngần ngại. Sự thật thì có lẽ nàng sẽ giả đò “điệu hạnh” cho ra vẻ con nhà đàng hoàng, nề nếp và trả lời rằng để nàng suy nghĩ vài bữa về lời đề nghị cầu hôn ấy. Nhưng cái hạnh phúc nàng mong đợi từ bấy lâu, bỗng dưng ập đến bất ngờ, không chuẩn bị, khiến nàng choáng váng, ngây ngất như đang bị nhấc bổng, chơi vơi.
Nghĩ đến gia-đình còn kẹt ở Việt nam, chắc mẹ của nàng sẽ vui mừng khi nhận được thư báo tin của nàng. Và Kiều sẽ trố mắt kinh ngạc khi nàng đưa khoe chiếc nhẫn cưới và kể chuyện về chàng. Nàng quá rung động, không còn kiềm chế được sự xúc cảm trong lòng, muốn khóc.
Ngước nhìn chàng với đôi mắt long lanh âu yếm và gật đầu bằng lòng với niềm vui, hạnh phúc vừa bất chợt ào đến. Nàng tưởng chàng vẫn luôn luôn đầy nghị lực, bình tĩnh. Nào dè, thấy nàng mặc nhiên ưng thuận một cháng nhanh chóng, chàng cũng đâm ra mừng rỡ, quýnh quáng, lập đi lập lại câu “Thật không em…thật nhé…” cả đến bốn, năm lần!
Về đầu trangHOÀI NIỆM VỀ MỘT NGÀY
Trần Văn Sanh
Ba mươi tháng tư một chín bẩy lăm – đáng lẽ – cũng chỉ là một ngày bình thường. Thật “bình thường” như gần vạn ngàn ngày trôi qua trong tâm hồn, trong trí tưởng của người dân miền Nam. Cái ngày bình thường ấy có thể khởi đầu vào một buổi sáng thực sớm nghe tiếng đại bác từ xa vang dội vào thành phố. Tiếng máy bay phản lực cất cánh từ một phi trường nào đó. Tiếng gà gáy ở miền thôn dã, hay tiếng máy nổ rì rầm của những chiếc xe đò đang chờ đợi để đưa người và hàng hoá qua nhưng thị-trấn, vùng quê hẻo lánh.
Người dân chài đã giương buồm ra khơi, thả lưới. Anh nông dân cũng vừa mới vùng mình thức dậy, vợ đã gói sẵn túi cơm, ấm nước để sửa soạn ra đồng. Con trâu đã kéo ra khỏi chuồng chờ đợi ở bụi tre sau hàng dậu thưa. Giây phút ấy, những đứa trẻ còn ngái ngủ, ngon giấc nhưng người đạp xích-lô đã ấm bụng với tách café, rảo cẳng châm điếu thuốc và dắt xe ra con lộ còn thưa bóng người… Một ngày bình thường có thể nói, bắt đầu từ lúc mặt trời vừa len lén ló dạng.
Nhưng thực sự, cái ngày ba mươi tháng tư đó đã đến một cách không ngờ, không đơn thuần như trí tưởng, như một ước mơ nhỏ bé hiện tại. Cái “ngày bình thường” ấy bắt đầu vào một buổi sáng, khi chiếc thương thuyền mang danh hiệu GreenWave tiến vào hải phận Phi Luật Tân, và viên thuyền trưởng thông báo cho mọi người biết là chỉ còn vài giờ nữa là đến vịnh Subic. “Đã đến hải phận Phi Luật Tân!”. Tôi nhớ là mình đã lẩm bẩm giữa lúc đầu óc còn ngớ ngẩn, mông lung. Thế là đã thực sự xa cách. Lần đầu tiên đi biển và giữa khoảng trời nước bao la không biết đâu bờ bến, tôi có cái cảm giác bâng khuâng, nghẹn ngào một cách thật khó nói. Tôi biết mình đã không bị say sóng. Những ngày hải hành thật êm đềm. Biển, trong mấy ngày vừa qua, không một ngọn sóng nhỏ, lặng êm như sự yên lặng của giây phút mặc niệm. Tôi chợt có ý tưởng rằng hình như biển – lúc ấy – đang mặc niệm cho bao triệu người mà cuộc đời, bỗng chốc trở nên kinh hoàng, xáo trộn.
Đang đứng trên đài quan sát của chiếc tầu. Nhìn quanh mình, tôi chỉ thấy nước và nước. Một người thuỷ thủ Hoa-Kỳ đứng bên cạnh, vỗ vai đoạn sổ một tràng, chỉ về phía tay phải, cuối chân trời. Những chiến đĩnh và hàng không mẫu hạm của Đệ Thất Hạm Đội Hoa-Kỳ sừng sững, ngạo nghễ hiện ra trên nền trời xanh biếc. Trông có vẻ gì gây gây, bất trắc. Tôi cảm thấy nao nao dạ, lần mò xuống tầng dưới để tìm một ly café và cái bánh ngọt điểm tâm. Xuống đến nơi đã thấy mọi người bu quanh chiếc máy radio với băng siêu tần số, đang phát thanh thời sự, chiến cuộc ở Sàigòn của đài BBC. Tiếng nói phát ra từ chiếc máy nghe rè rè, bắt không được rõ lắm nhưng cũng đủ để người ta nghe kịp những tiếng còn, tiếng mất… “ quân chính quy Bắc Việt đã vào đến Gia-Định từ đêm…Các tiểu-đoàn Biệt Động Quân và Thuỷ Quân Lục Chiến vẫn còn chống trả kịch liệt ở miệt Phú Lâm…. Sẽ có thông-điệp của tân Tổng Thống Dương Văn Minh nói về số phận của miền Nam trong những giờ sắp tới…” Tôi tự lấy ly café rồi ngần ngừ, không biết có nên kiếm cho mình một chỗ nào đó, gia nhập với đám người ngồi đây để nghe thêm tin tức về một mảnh đất nhỏ bé đã bị cầy nát bởi chiến-tranh hơn hai mươi năm qua. Đã bị những tên đội lốt trí-thức, đội lốt đạo đức buôn bán bằng những sinh mạng của triệu người dân vô tội, bằng sự hy sinh hào hùng của triệu người lính chiến. Đã bị - cuối cùng – bỏ rơi bởi những tên đồng-minh lọc lừa, xảo trá. Bàn cờ đã được xếp đặt. Số mệnh của vùng đất tang thương đó đã được mặc cả.
Vấn đề chỉ còn là thời gian. Tôi bỏ cái cabin đầy nhóc những khuôn mặt ưu tư đó, len mình ra đứng dựa lan can. Hít thật sâu vào lồng ngực cái mùi lành lạnh, mằn mặn của gió biển để cố nén một tiếng nấc. Tự dưng, tôi bỗng muốn được khóc như trẻ thơ. Như ngày xưa bố mẹ đã không cho theo cô cậu về thăm quê ngoại.
Ba mươi tháng tư ngày ấy tôi không được chứng kiến, nhưng đã nghe kể quá nhiều. Đã đọc quá nhiều để có thể tưởng tượng đến hình ảnh của một ngày hỗn loạn; những mặt người xớn xác, kinh hoàng. Những người lính cúi đầu lặng lẽ trút bỏ vũ khí.
Những chiếc xe gắn máy đèo bồng trẻ con và người lớn chạy vội vã về hướng bến tầu.
Những chiếc phà, chiếc xà-lan đầy nhóc người và quang gánh hấp tấp rời bến; tiếng kêu gọi, tiếng gào khóc thảm thiết của người thân còn đứng lại đưa tiễn. Hình ảnh của một người sĩ-quan cảnh sát trong bộ đồng phục tề chỉnh, giơ tay chào một “ngày bình thường” để rồi chấm dứt cuộc đời mình bằng phát súng vào màng tang. Nụ cười khô héo còn vương vất lại trên nét mặt. Tôi còn có thể hình dung được trước đó, hình ảnh của những đại-lộ kinh hoàng đầy máu và thân xác da vàng trên con đường triệt thoái từ Pleiku, Kontum, Ban Mê Thuộc, Nha Trang, Đàlạt… nhưng tôi sẽ chẳng bao giờ cảm nghiệm nổi sự sợ hãi, đớn đau của nhưng khuôn mặt trẻ thơ khóc đã khản tiếng, ôm chặt lấy xác người mẹ. Hay sự chịu đựng tuyệt cùng của bao kẻ cắn răng, gạt nước mắt bỏ lại sau lưng người thân yêu còn hấp hối để tìm con đường sống hòng xây dựng lại một giống nói hiền hoà nhưng bất khuất. Còn nhiều oan-khiên, thống khổ để mà tưởng tượng, để mà nhắc nhở đến vạn đời sau. Hơn hai mươi năm cuộc chiến đã thu gọn, đã chấm dứt vào một “ngày bình thường” đó. Và bây giờ, ba mươi tháng tư hôm nay cũng chỉ là một ngày thật bình thường. Buổi sáng của một ngày bình thường bắt đầu bằng tiếng đồng-hồ báo thức ở đầu giường. Rồi đánh răng, điểm tâm ly café pha vội vội, vàng vàng. Phóng ra xe. Nhập vào giòng nước xe cộ trên những xa lộ dài lê thê, kẹt cứng. Ngày bình thường ấy tiếp tục bởi những bữa ăn trưa vội vã, những giờ làm việc quần quật. Và chiều về, dưới cơn mưa phùn hay buổi chiều nắng gắt, nhìn từng chiếc xe nhíc từng chút, đổi tránh khỏi dẫy hàng đang bị kẹt. Tiếng thắng gấp, bóp kèn, chửi rủa.
Đó là một ngày tiêu biểu bình thường ở Mỹ. ở cái xứ bao la thênh thang, rộng đến nỗi, giầu đến nỗi ai cũng có thể tạo cho mình thành những hoang đảo, những lâu đài của xa hoa, tráng lệ. Ngày ba mươi tháng tư, có lẽ đã được thay vào bằng những buổi tiệc sinh nhật, ngày kỷ-niệm lấy nhau, ngày mua được nhà mới…. nhậu thả ga, nhót loạn cuồng.
Ba mươi tháng tư bây giờ chỉ còn là một con số vô nghĩa trên tờ lịch, của những người già cả, gần đất xa trời, chỉ mong được trở về gởi nắm xương tàn dưới lòng đất mẹ. Nếu ngày lễ Vu-Lan đem đến một ý nghĩa nào đó cho sự tưởng nhớ về người thân yêu đã quá cố. Ngày ba mươi tháng tư lịch sử ấy cần phải được nhắc nhở một cách linh-thiêng, tương xứng cũng như vậy. Có khác chăng, ý nghĩa của ngày ba mươi tháng tư chỉ khác ở chỗ là chúng ta còn có thể cứu vãn được những thế-hệ sắp tới. Nhất định rằng phải thế.
Vì nghĩ cho cùng, đó không phải là ngày để mọi người ôm mãi nỗi tuyệt vọng, oán hờn.
Có lẽ ít ai đã nghĩ rằng vì thảm sát hơn 6 triệu ngưòi Do Thái. Hitler vô tình - hay vì ý trời - đã đem đến một điều may mắn, như một phép lạ - đã đem tất cả dân Do Thái đang lang bạt, tha hương trên khắp thế giới đã trở về lập quốc sau hơn 2,000 năm tản mác, sống lưu vong. Ngày 30 tháng 4, 1975 sẽ là ngày đánh dấu ngày quê hương đã gieo một hạt giống hy vọng, niềm hy vọng vào một tương lai của Việt-Nam anh minh vùng trời Đông.
Như sự đau dớn, xẻ thịt của người mẹ khi sanh đứa con khóc chào đời. Sự đau đớn ấy sẽ được đền bù, an ủi bằng những tiếng cười nói của trẻ thơ. Những thảm hoạ gây ra bởi ngày ba mươi tháng tư năm bẩy lăm ấy biết đâu sau này sẽ đem đến cho dân tộc chúng ta được một nền hoà bình, tự do thực sự nếu chúng ta còn có một chút tình bồi hồi, rung động nào đó khi nghĩ đến quê hương.
SVT 04/1976
Về đầu trangHỒI KÝ CALIF
Trần Văn Sanh
Chuyến đi Calif. nào cũng thế, trước khi đi hay trên đường bay xuống thung lũng Hoa Vàng - hay thẳng xuống OC - tôi đều hồi tưởng lại hai bản nhạc thịnh hành của một thời Hippy, đó là bài "California Dreaming" của Mama & Papas và bản "San Francisco" của Scott Mckenzie.
California Dreaming
San Francisco
Thưở đó nghe hai bản nhạc này, tôi mơ sẽ có một ngày mình đến cái tiểu bang mà thiên hạ đồn rằng đường phố lót vàng, hay chỉ cần vác cuốc xẻng vào rừng tìm mỏ vàng, chả mấy chốc cũng trở thành triệu phú. Vậy mà giấc mơ đi ngoại quốc khi không bỗng thành sự thật, tất cả cũng nhờ đám “cháu yêu” của cụ Hồ cuối tháng 4 năm 75 - khi họ tính làm chơi mà ăn thiệt, cộng với sự tiếp tay của Mỹ và đám ngụy quyền đầu cơ bán nước - chứ không thì giờ này chắc tôi vẫn đang ở Việt Nam ươm mơ, vì còn được đủ sống là may lắm rồi, ở đó mà mơ được đi Mỹ, đi California.
Sáng sớm hôm sau hai vợ chồng, mỗi người một vali, một túi sách tay, tàn tàn đi bộ băng qua đường được một đoạn là đến trạm xe buýt, nhẩy lên xe và chỉ hơn nửa tiếng đồng hồ là đến phi trường. Lúc về cũng thế, dễ ợt và khỏe re, chả cần ai phải đưa đón gì ráo. Đây là một trong những lý do mà tôi đã chọn mua căn hộ ở ngay phố Bellevue; cái gì cũng gần nhà chỉ cần đi bộ 5, 10 phút là đến - vừa tập thể dục vừa khỏi tốn tiền
Về đầu trangHội Đa Thê
Trần Văn Sanh
Hắc Đế đại vương nhà mình đang độc quyền chuyên trị & là thủ lĩnh của HSV (Hội Sợ Vợ), đã biết vậy rồi thì vì tình bạn hữu cho nên ta cũng không nên tranh chấp, dành dựt quyền hành, miếng thơm của bạn, bởi vậy cho nên tôi bỗng có ý định rằng sẽ thành lập Hội Đa Thê - sau khi cái bản tin Tối Cao Pháp Viện Hoa-Kỳ mới đây tức thì - đã chấp thuận với số phiều 5-4, cho phép dân Bóng (lại đực & cái) được hồ hỡi lấy nhau, bất kỳ trai, gái - đàn ông hay đàn bà, dựa theo cái "hiến pháp" nưóc Mỹ, với chủ thuyết cho là ai cũng có quyền theo đuổi cái hạnh phúc mình muốn (“The pursuit of Happiness”), mặc dù riêng với tôi - cái định nghĩa về "hạnh phúc" " đó là thứ định nghĩa hạn hẹp, chỉ riêng cho cá nhân, vị kỷ ; trái ngược với cái tư tưởng của những người lập quốc (chắc bạn chưa biết tôi có tài nói chuyện, "đàm thọai" với người quá cố?), vì những người này cho rằng hạnh phúc chính là do từng cá nhân đóng góp cho xã hội hơn là tự thỏa mãn cho riêng bản thân (happiness was about an individual’s contribution to society rather than pursuits of self-gratification).
Dù sao đi chăng nữa, chuyện đã lỡ rồi, phán quyết đã ban hành thì chả mấy chốc, dân Bóng sẽ chưa chịu ngưng ở đó, mà còn đòi hỏi là họ có quyền lấy bất cứ ai - kể cả trẻ con - và có bao nhiêu "vợ/chồng" đều là quyền "theo đuổi hạnh phúc" riêng của họ ( dựa theo bản tin "You've been warned, America, gay marriage is just the beginning") Vậy thì chúng ta còn chờ đợi gì nữa? tại sao không tổ chức, đứng ra kiện chính phủ - bắt buộc phải cho phép mình có quyền được nhiều chồng, nhiều vợ (đa thê) - miễn là mấy cô, mấy bà vẫn còn khoái cái tên thích ăn nói lăng nhăng, vớ vẩn như tớ thì bố ai có quyền xía dô chuyện đời tư của người khác. Mèn ơi, sao mà tôi yêu cái nước Mỹ nhiều tự do như thế này!
Tôi dám chắc một điều là thành viên trong HSV cóc dám ghi tên tuổi mình vào bản Kiến Nghị cho phép tự do đa thê, vì hậu quả cho họ thì mọi người cũng đã lường trước một cách dễ dàng (nhưng hễ mấy bà đòi đa phu thì ngay cả hội trưởng HSV cũng sẽ tức tối, xin gia nhập hội Đa Thê để trả thù là cái cẳng...à quên, cái chắc).
Cách đây không lâu, chắc nhiều người cũng đã đọc qua bản tin một cặp vợ chồng tiệm bánh ở tiểu bang Oregon bị tòa tuyên án phạt $135 ngàn, bồi thường cho một cặp Bóng vì họ không chịu làm bánh cưới cho cặp này, vì đó là làm trái ngược với cái niềm tin, tôn giáo của họ.
Quả là "chờ được mạ thì má đã sưng...vếu!", nghĩa là đợi khi thượng đế - Chúa phạt quan tòa, phạt cặp vợ chồng Bóng kia đã ép bức, tước quyền tự do làm bánh của chủ tiệm, thì trước hết họ phải toi hết bao nhiêu tiền phạt, tiền chi phí luật sư, kiện tụng - chưa kể đến những lo âu, mất ngủ, gây bao phiền toái, hệ lụy đến con cái trong gia đình, đến thành viên trong công việc làm ăn của họ.
Nói tóm lại, theo thống kê thì dân Bóng chỉ chiếm được chừng tử 3% đến 5% dân số nước Mỹ, mà cho dù là 10% hay 15% đi chăng nữa (khi cộng chung những kẻ Bóng còn e thẹn, núp trong bóng tối), chỉ có một thiểu số mà đã có thể làm áp lực nặng cả xã hội đến như thế thì quả là...ớn thiệt! Không chừng cứ theo cái đà như thế này, có lẽ tôi cũng chả cần nhấc tay hay rụng sợi lông chân nào mà sớm muộn, - lợi dụng dân Bóng vùng lên đòi hỏi đủ mọi thứ quyền - trong đó đương nhiên sẽ có quyền "đa dạng" (nhiều phối ngẫu=partner=đa thê=đa phu), bây giờ mình cứ âm thầm lập Hội trên giấy tờ, đặt cương lĩnh cho hội-viên.
Chờ khi cơ hội đến thì phất cờ lên, thế là xong.
Có điều là không biết xã hội mới chịu sớm cởi mở cho mình được thi thố tài năng (đúng hơn là "khả năng"), chứ chờ thêm chục năm nữa mình trở lại thời mặc tã thì...đành chịu thua!
Mà dù thời thế có đúng lúc hay không, (đang gãi tai, sờ gáy) tôi đang lo - không biết là - trước tiên mụ dzợ mình có chịu thông qua cái kiến-nghị này hay chăng? sau khi mình tuyên truyền, òn ỷ, rỉ tai - nại ra đủ loại "tiện ích" như là:
thì em sẽ có thêm bạn, thêm bè để chị em thủ thỉ; giúp em đỡ được công chuyện nhà; em ốm đau thì có người nấu cho chén cháo; đêm nào chồng có dở quẻ thì bán cái cho người kia, v.v...toàn chuyện có lợi không hà!
Nhưng nghĩ cho cùng, thiệt tình cũng đáng giận ông trời sao cắc cớ, chơi khăm đám đàn ông - đã tạo ra đàn bà đẹp (mà dù có xấu như ma chê qủy hờn đi chăng nữa) - bình thường hiền, nhát như thỏ nhưng đụng đến chuyện chồng thích... phở - mụ nào cũng ghen lồng, ghen lộn. Chán mới đời!
Thú thiệt, nhiều lúc cũng muốn vào HSV, như lo cái là làm thế lại đâm ra mang tiếng xấu cho nàng – là xấu chàng thì hổ thiếp - cho nên thôi cóc dám.
Vậy thôi nha mấy trự, nói vòng vo tam quốc gì rồi cũng rứa, một vợ cũng đã mệt bá thở rồi, rước thêm "giặc" mới về nhà chỉ có mà đi đầu thai sớm. Coi vậy mà cuộc đời này vẫn còn đẹp chán. Thôi quên cái tựa đề bài này đi nghe bạn, giờ thì hãy cùng tớ cưa vài lon Ken cho ỡ...dzui.
nào: Một, hai, ba...DZÔ!
Về đầu trangHướng Đạo = Sẵn Sàng
Trần Văn Sanh
Năm 1999, tôi được một cố vấn về Thị Trường Chứng Khoán (stock market) báo trước chuyện bong bóng dotcom sẽ vỡ vào năm 2000, nên tôi đã thoát được nạn khủng hoảng kéo dài hơn 2 năm sau đó. Điều làm tôi hoài nghi là tại sao người ta lại biết trước những điều "dự đoán" đó, và cộng hêm lời cảnh báo cho năm 2000 là sự kiện dotcom chỉ là "trò chơi" so với cái bong bóng địa ốc sẽ xẩy tới.
Giống như 95% dân Mỹ, khoảng thời gian 200-2007 tôi đang "hồ hởi" kiếm tiền, không nghĩ chuyện có thể tệ như người ta nói.Khi sự kiện năm 2008 xẩy ra, tôi mới hết hoài nghi và bắt đầu đặt ra những giả thuyết, rồi theo dõi báo chí thường nhật (main stream media như CNN, ABC, CBS, Foxnews, etc...) để tìm những "khuôn mẫu" (pattern) tiềm ẩn qua những bản tin (cho dùtin tức có chính xác hay không, vì những điều họ không nói đến cũng là điều mình muốn biết), quan trọng hơn là theo dõi tin tức những nguồn tin không chính thức (nhưng gần đây coi như là "chính thức" cho 5% dân Mỹ, vì đã dám loan tin những gì họ biết hay được tiết lộ bởi những người "bên trong").
Nếu nói về phương diện tâm linh, khi biết đời vốn toàn những chuyện trầm luân, thay đổi như thế, chúng ta có ba lối đi để chọn lựa:
1. Cứ sống mặc cho đời đến đâu hay đến đó.
2. Buông xuôi hết tất cả, theo kiểu "lên non tìm động hoa vàng", để lo cho chính mình, cho linh hồn (hay tu cho kiếp sau).
3. Sắp xếp lại cuộc sống, buông bỏ những thứ gọi là ảo vọng, phù phiếm - và nếu không là gánh nặng cho người khác, mà còn chuẩn bị để sẵn sàng giúp người khi tai họa xẩy đến.
Tôi không biết mọi người sẽ chọn cái lối đi nào, nhưng sau bao nhiêu năm nói về chuyện này với những người trong gia đình, họ hàng thì hầu hết - giống như 95% dân Mỹ - đa số đều chọn con đường #1, mà theo sự quan sát và suy luận của tôi, những gì đã & đang xẩy ra ở Ferguson, Baltimore sẽ là những hình ảnh điển hình cho những ngày sắp tới, khi dân chúng không thể rút tiền từ nhà băng hay ATM, mua thực phẩm khi chợ búa không còn mở cửa hay hết hàng hóa (vì phương tiện chuyên chở không có, vì bạo động nên không ai dám ra đường, hay không có xăng để chạy,v.v...) Khi một người đã không còn sợ cái chết thì chẳng còn chuyện gì đáng lo sợ hay đáng quan tâm, ngoài việc chia sẻ những gì họ còn có trong tay, trong tâm ý. Chúng ta tuổi đã lớn, thời gian chẳng còn là bao nhiêu - nhất là những sự kiện đang xẩy ra - nên thay vì phí thì giờ để hơn thua, ganh tỵ nhau chỉ vì những chuyện cỏn con, toàn là ảo tưởng, chúng ta nên gắn bó, hội ý với nhau để bảo toàn cho thế hệ sắp tới. Chẳng có gì đáng gọi là hoang mang hay sợ hãi. Nếu chúng ta đang ở vùng Alabama,Florida, Lousiana, So. Carolina.... nơi hàng năm thường có những trận giông, bão xẩy đến - hay ở bang Calif. về chuyện động đất thì thay vì lo sợ, không làm gì và để mặc cho số mệnh an bài, thì chúng ta cũng nên chuẩn bị, phòng hờ - nếu không cho riêng mình thì khi sự việc xẩy ra, mình còn có thể giúp ích được cho người khác, nhất là cho chính con cháu, họ hàng, bà con láng giềng.
Tuy trong gia đình, nhất là mấy thằng con đã không tin những gì tôi nói, tôi vẫn phải chuẩn bị cho chúng nó. Chuyện này thường khiến tôi liên tưởng đến cái biến cố 30/04 năm xưa, mà nhiều người trong họ hàng, bạn bè mãi đến khi đã "va đầu vào tường", khi đó họ mới biết những lời tôi nói là đúng mà họ vì không tin nên đã không chuẩn bị. Buồn uời nhất là những người thường ngụy biện, bảo rằng tôi chưa từng sống dưới chế độ mới nên làm sao biết? Chuyện! đâu cần phải nhúng tay vào nước sôi thì mới biết nó nóng đến cỡ nào!
Về phần tài chánh, là thứ nhất - vì không biết trước bao giờ tài khoản trong băng của mình "được" mượn đỡ hay bị mất giá trị. Thứ hai là tiền để trong quỹ tiết kiệm hay chỉ là chương mục gửi nhà băng (bank account hay gọi là Checking account) chẳng được bao nhiêu tiền lời, bị trừ thuế nữa mà trong lúc vật giá leo thang (lạm phát) như hiện tại thì tiền bỏ trong băng coi như lỗ.
Bởi vậy cho nên thay vì mỗi năm trả tiền thuế đất đai, nhà cửa 2 lần một năm (ở WA thì vào tháng 04 & 10), tôi trả hết một lần cho xong. Thí dụ như tháng 7 hay tháng 9 này, khi không tiền trong băng bị "mượn tạm" 30% do đó mình đâm ra thiếu hụt tiền trả thuế đất; hay đồng USD bị mất giá 30% - chính phủ sẽ "điều chỉnh" tiền thuế đất - thay vì $1,000 thì mình phải trả thành $1,300. Thế là toi/tốn thêm 30% tiền túi! Mình trả trước rồi thì khỏi lo. Để trong băng chi cho phập phồng, lo sợ.
Bây giờ ai còn nợ nhà băng thì nên trả hết càng tốt; không thì cái tiền nợ còn lại sẽ bị nhà băng "điều chỉnh" lại theo cái đạo luật "Dodd–Frank Wall Street Reform and Consumer Protection Act" năm 2010 cho phép nhà băng tịch thu tài khoản và điều chỉnh lại món nợ để nhà băng không bị lỗ! Giống như cái thí dụ thuế đất trên, nếu còn nợ nhà băng $200K mà tiền bị mất giá 30%, còn lâu nhà băng chịu cho mình trả nợ như cũ vì làm như thế thì họ lỗ 30% - do đó, tiền nợ còn lại sẽ trở thành $260K, và tiền trả nợ hàng tháng nếu không tăng lên thì số năm, tháng còn lại sẽ bị kéo dài ra thêm.
Hàng ngày tôi thường xem tin tức về kinh tế, tài chánh nhiều nhất là ở 3 trang mạng dưới đây để biết diễn biến đã & đang đi tới đâu.Mọi người cũng nên theo dõi để chuẩn bị:
Về đầu trang
Lá Thư Đầu Tiên
Trần Văn Sanh
Trần Văn Sanh, 12A 73’-74’ Trước hết, xin ngỏ lời kính chào toàn thể thầy, cô và gửi đôi dòng cho các bạn cựu HS của mái trường Văn-Học thân yêu cũ, sau đó là cám ơn bạn Nguyễn HoànG Sơn, tự Sơn đen (sẽ điều tra lý lịch tại sao hắn "được" đặt với cái tên đó sau) đã nhận ra một 'cụ' (hay cựu gì cũng rứa) HS của trường.
Thật ra trên giấy tờ tôi tên Sanh, hè năm 73 vô tình lên chơi Đà- Lạt thấy thích nên ở lại luôn và vì xưa tánh thích rong chơi, hơi chút ngông cho nên hình như mãi đến khoảng tháng muời một, mười hai gì đó tôi mới ghi danh nhập học trường Văn-Học.
Cũng vì cái bản tánh bơ đời nhưng cô độc thưở đó nên tôi quen biết rất ít - đếm không hết một bàn tay - trong đó có tên Hoàng Như-Sơn và cô em họ của Sơn tên Dung cùng học lớp 12A. Còn chuyện bốn chị em nhà họ Chử thì ai đã từng học ở đó mà không biết thì có lẽ là kẻ cù lần nhất ĐL (mà không người kế vị!).
Không hiểu sao thầy Chử Bá-Anh có nụ cười rất có duyên nhưng nổi tiếng rất nghiêm với học trò, ai đến trường trễ mà xui gặp thầy thì ít nhất cũng bị nhéo tai, không thì nghe thầy giảng moral - cũng may cho tôi và không hiểu vì sao, thầy CBA lại hay "ân xá" cho cái thói ương ngạnh, ngang như cua của tôi mà thường đến trường trong những hôm "ngày lành tháng tốt", chỉ vào những lớp mà mình thích (như môn triết của thầy Diễm). Đã vậy thầy CBA còn mời tôi đến nhà ít nhất là một lần vì nghe nói tôi cũng thích nghiên-cứu, thích đọc Kinh Dịch và Tử-Vi, một ngành phụ của Kinh Dịch, lúc đó tôi nghĩ có lẽ thầy muốn cả bốn người con của mình phải văn võ song toàn, cái gì cũng phải biết, không ít thì nhiều. Ngoài những kỷ-niệm đó, tôi chỉ còn nhớ là cũng đã một lần tôi được thầy cho phép triển lãm tranh sơn dầu của tôi ở trong trường để giúp đỡ một vài người bạn đóng tiền học phí.
Quả đất tròn nhưng ĐL lại còn nhỏ bé hơn, tôi không ngờ sau này mới biết - người em rể cột chèo của tôi là Đặng Vũ-Anh Tuấn cũng đã từng học cùng lớp 12a năm đó. Nhìn lại hình ảnh trên Diễn Đàn VH, tôi quả thực chả nhận ra được ai, ngoại trừ tấm hình cũ của Chử Nhất-Anh mà tôi chỉ nhớ mang máng là ngày xưa rất yếu đuối và hiền lành, còn Tứ-Anh thưở đó có mái tóc ngắn như một "tomboy":). Giờ có gặp lại có tài thánh cũng chả nhận ra, mà tôi nghĩ các bạn nếu không quen thân và thường xuyên liên lạc chắc cũng khó nhận ra nhau khi trí nhớ và 'dung nhan mùa hạ' đã dần tàn phai khi tuổi đang ở cuối thu.
Trước khi chấm dứt lá thư đầu tiên gửi lời chào, tôi xin để lại đây bốn câu thơ mà trên bước đường tha hương năm đầu tiên, tôi viết lúc chạnh nhớ về những ngày còn yên vui, bình an dưới mái trường:
Trường tôi nho nhỏ ngang chừng dốc mỗi sáng sương mờ áo trắng bay từ khi xa mái trường thôi học thoảng vẫn hình dung, nhớ vơi đầy.
Về đầu trang
Mồng Một Tết
Trần Văn Sanh
Tiếng pháo nổ rồi từng tràng pháo nổ trên bàn thờ mâm cỗ đã bầy xong mẹ tôi đang châm dở nén hương vòng và sắp lại trái hương bồng ngũ qủa cha tôi cắt khoanh giò đang bóc lá chị tôi bưng dĩa cá để trên mâm ông tôi ngồi im lặng nghĩ trầm ngâm miệng lẩm bẩm thì thầm câu đối tết thằng cu tí tươi cười khoe áo đẹp con tư châm pháo tép dọa thằng ba em út tôi xé nát bức tranh gà thằng anh kế pha trà dâng nước cúng cha tôi mặc chiếc aó dài lụng thụng lại bàn thờ quỳ xuống khấn gia-tiên bỗng một tràng pháo chuột nổ ngoài hiên nghe tiếng pháo tôi liền ra mở cửa một ông khách trông tươi cười hớn hở bước vào nhà mừng rỡ mở phong bao làm cả nhà tấp nập chạy xôn xao chúc năm mới ồn ào không ngớt tiếng.
(tác giả vô danh) Chợ hoa Xuân Giáp Thìn 1964
Không hiểu sao, một bài học ca-dao tầm thường về ngày Tết này đã in hằn một cách sâu đậm trong tâm khảm một thằng bé con như tôi, lúc đó tôi nghĩ chắc mình chỉ chừng chín, mười tuổi là cùng. Vậy mà mấy chục năm sau, tôi vẫn còn thuộc lòng cái bài ca dao ấy một cách thật kỳ quái.
Ngẫm nghĩ lại, ở cái tuổi đó con nít nào mà chả khoái Tết, nhưng có lẽ hiếm có đứa nào mê ăn Tết bằng mình. Tôi nhớ rằng vừa qua cái ngày lễ Giáng-Sinh là tôi đã bắt đầu xem lịch, đếm từng tờ mong cho đến ngày Tết. Chưa đủ, chiều nào sau khi đi học về tôi đều sách chiếc xe đạp chạy ngang qua khu chợ Bến-Thành, xem những gian hàng chợ Tết đã bắt đầu dựng hàng, dựng họ lên chưa, và thường thường - năm nào cũng thế - trước ngày lễ ông Táo về trời là tôi thâý hàng quán đã đông đủ, bày bán đủ mọi thứ món quà cho ngày lễ Nguyên-Đán, kể cả khu chợ hoa ở trên suốt con đường Nguyễn-Huệ. Nhắc đến chợ hoa là phải nhắc luôn cả đến những cành hoa Đào, chậu hoa Mai, chậu Quất …nhưng ở cái tuổi còn nhóc tì và nhất là dân tóc húi cua, tôi không chú ý đến những chậu hoa mà chỉ khoái đi ngắt trộm những trái Quất đã được mấy nhà làm vườn tỉa, bó làm sao trông thật quyến rũ, mời mọc. Hái Quất thì ham lắm, nhưng hái trộm về rồi có dám ăn được là bao. Trông bề ngoài ngon lành đấy, nhưng cắn vào mới biết nó chua bỏ mẹ, chua đến vãi đái. Thiên-hạ thích mua về để chưng bầy, để hy vọng cầu mong rằng sang năm mới mọi chuyện sẽ được thành công rực rỡ tựa như những cành hoa, cành đào nở rầm rộ hay tiền bạc vào nhiều như những chậu quất nặng triũ đầy những trái vàng óng, mọng nước. Con nít như tôi chỉ biết hái trộm về cùng lắm chỉ biết pha làm nước uống, hay để trên bàn ngắm nghiá được một, hai hôm là chán, vứt lăn lóc!
Sau mấy hôm đạp xe chạy lòng vòng, ngắm nghía khu chợ hoa, bánh mứt ở chợ Bến-Thành, tôi bắt đầu cảm thấy chán, đâm ra trông ngóng, mong cho đến chiều 30 - khi mẹ tôi, cùng mấy người hàng xóm hùn chung nhau làm bánh chưng, bánh tét. Trong lúc đàn bà lo rửa đậu, thái thịt và vo gạo nếp, ba tôi sai tôi và mấy đứa con trai trong xóm đem xếp mấy cục gạch chồng lên thành cái bếp lộ thiên, rồi ông lăn cái thùng phuy nước trong nhà ra, khiêng đặt lên rồi đổ nước vào, chất củi và nhóm lửa. Đợi cho lúc tan hết đám khói cháy mù mịt, chỉ còn là đống than hồng lửa đỏ, thế là bọn con nít chúng tôi bu nhau ngồi quây quần, đợi ngừơi lớn trong lúc canh chừng nấu bánh và kể chuyện xưa, nhất là ông hàng xóm đã về hưu, từng chuyên nghề mổ rửa xác chết của lính Mỹ trước khi bỏ vào bao nylông, đóng hòm chở về nước, ông thường hay kể chuyện ma, làm mấy đứa bé con sợ teo quắn cả người, càng về khuya – khi câu chuyện đến phần hồi hộp, căng thẳng,chúng nó ngồi lấn sát rịt gần vào nhau, làm như hễ dư chỗ trống là ma quái, yêu tinh sẽ hiện ra và xen vào không bằng! Nghe nói đâu ông này sau bỗng dỡ chứng khùng khùng, điên điên mà người trong nhà kể lại rằng một hôm đang mổ tử thi lấy bộ lòng ra, ông cắt nhàm dây gân tay của xác chết khiến nó phản xạ như tát vào mặt ông ta, khiến ông bị ám ảnh và trở thành khùng điên từ đó.
Gần nửa đêm, trong lúc người lớn đang lục đục dọn dẹp bên trong nhà và chuẩn bị bàn thờ cúng giao-thừa, đám con nít đã bị giải tán về nhà ngủ. Riêng tôi và vài đứa lớn tuổi được phép nấn ná, ngồi canh lửa. Chúng tôi bẻ bắp, xỏ cây đũa ngồi nướng bắp và trò chuyện tầm xàm ba láp. Hai, ba năm sau - cũng nhóm ấy - tất cả đã bắt đầu dậy thì, trổ mã, có đứa đã biết thế nào là “chịu đèn”, đá lông nheo. Tôi thấy khi không con gái đâm ra ít nói, chỉ mím miệng cười lỏn lẻn. Con trai thì chỉ có mình tôi là bạo mồm, bạo miệng, một hai đứa còn lại thì nhát gái, chỉ biết hùa theo câu chuyện, tiếng cười của kẻ khác. Sau này nghĩ lại, có lẽ tại cái tánh “gà tồ” chưa ý thức được sự thay đổi của bọn con gái, tôi vẫn tỉnh bơ, ngon ơn ngay cả trước sự trêu chọc - như một lối tán tỉnh, bỡn cợt - của một con nhỏ mà tôi cho rằng “nặc nô” nhất trong đám.
Đối với tôi, sáng mồng một của cái tuổi còn niên-thiếu có lẽ là ngày vui nhất, mấy ngày sau đó – mồng hai, mồng ba lại đâm ra xoàng, hết còn hào hứng. Vì sáng ngày mồng một, mở mắt dậy tôi đã được tiền lì-xì của bố mẹ. Sau đó là được đóng bộ, mặc diện những quần áo mới - tưởng tượng rằng mình rất le lói - để về quê thăm ông bà, họ hàng. Vấn đề ăn uống ngày tết thì khỏi chê. Đối với con nít như tôi được tự do khui chai nước ngọt ‘xá-xị’ con cọp uống một mình một chai, khỏi phải chia năm sẻ bẩy với lũ em. Ui cha, nội lúc ợ hơi lên một tiếng thật bự nghe cũng đã con nhĩ, chứ uống được chỉ vài ngụm nhỏ thì ăn nhậu khỉ gì!
Chưa hết, tôi mê nhất món bánh chưng, bánh tét chiên lên ăn với tôm khô củ kiệu hay chấm với đường cát. Cũng tại vì món khoái khẩu này, năm tôi mười sáu tuổi, lợi dụng lúc bố mẹ đi chúc bạn bè hôm mùng hai tết; bắt chước bố - tôi lôi chai rượu mận, một mình tì tì ngồi ăn bánh tét chiên và uống mẹ nó hết hơn nửa chai hồi nào cũng không biết. Chỉ biết rằng tôi lăn quay - sau một màn cho “chó ăn chè”, ói mửa vài bận, - xỉn một trận nằm liệt giường những hơn hai ngày.
May mà mẹ tôi can gián, bảo rằng chắc sau trận này tôi học một bài học, sẽ tởn đến già, không thì có lẽ tôi cũng đã bị một trận đòn no nê tét đít. Qủa thật, sau cái kinh-nghiệm bản thân ấy, và từng chứng kiến mấy thằng bạn và đồng thời những tay bợm nhậu say sưa quá chén, đi nghiêng ngả, té lăn chiêng ngoài đường rồi ói tung ói tóe, trông thật mất nhân phẩm, chưa kể đến sự nguy hiểm mất tánh mạng, tôi chưa hề tái diễn lại cái màn say mèm năm xưa,vui lắm thỉnh thoảng chia vui uống cùng bạn bè hai, ba chai bia hay một vài ly rượu là cùng.
Còn một chuyện vui tôi để dành đến phút cuối kể cho bạn đọc cười chơi trong mấy ngày Tết, là cũng vào một mùa xuân năm 1964, khi ba tôi dẫn tôi đi dạo phố vào một ngày gần Tết trên con đường Catina (sau đổi thành đường Tự Do, nay là Đồng Khởi) ngắm phố phường. Trong lúc hai cha con uống nước mía đi lang thang nhìn những hàng quán bầy biện trang trí cho những ngày Tết sắp đến, tôi hỏi bố rằng mình có mua sắm gì không thì bố tôi trả lời là không, vì đã có mẹ làm chuyện đó rồi, bố tôi chỉ cần mua chậu hoa về để chưng, còn bữa nay hai bố con mình đi chỉ dán mũi vào tủ kính có vậy thôi. Tôi khờ khạo hỏi "dán mũi vào tủ kính là gì hở bố?". "Thì mình chỉ đi xem chơi thôi chứ không mua sắm gì cả". Bố tôi nói. Sau khi đi một vòng phố xá Sàigòn rồi về nhà, chiều ba mươi Tết ba mẹ tôi bận bịu dọn nhà, dọn cửa bầy biện phòng khách để mang ra những khay mứt, kẹo, hạt dưa...chuẩn bị cho ngày mai, ngày đầu năm. Trong lúc làm việc, mẹ tôi hỏi cho có chuyện để nói - rằng hôm qua hai bố con đã đi chơi đâu. Tôi nhanh nhẩu kể lại rằng mình được bố mua cho một bịch nước mía và ăn cái bánh bao nóng hổi, to tướng - sau đó tôi còn chêm thêm một câu, ý là muốn khoe rằng mình mới biết thêm một cách nói rất hay ho và rất "văn chương" của người lớn:
- Mẹ biết không, bố còn dẫn con đi dán mũi vào chỗ kín nữa, nhìn đã luôn!
Lúc đó, tôi chả hiểu tại sao cả bố lẫn mẹ ôm nhau gần như muốn lăn ra sàn cười lăn lộn. Tôi đếch biết mô tê gì cả, vậy mà chỉ cần vài năm sau thôi, tôi đã trở thành một tên quỷ sứ, mỗi lần nhớ lại chuyện này tôi lại nhớ đến cái tết năm đó. Còn bây giờ, lại thêm một cái Tết xa quê hương, tôi nhớ bốn câu thơ làm đã lâu, nhưng nó vẫn phù hợp cho cái tâm trạng của mình hiện tại:
Xuân về không thấy hoa đào nở
người nhớ quê nhà có buồn không
đau lòng như đàn chim mất tổ
xuân về sao lòng vẫn giá đông.
Về đầu trang
Danh Sách VHDL- Bấm vào tên dưới đây để xem hình
❖Thầy Cô
❖
Vi Khuê Chử Bá Anh VA -
Phạm Văn An VN -
Trần Đại Bản VA -
Nguyễn Bào VN -
Nguyễn Thanh Châu VN -
Đặng Vũ Thu Cúc Vancouver -
Nguyễn Minh Diễm VA -
Hoàng Khôi Sydney -
Lê Trọng Lập CA -
Phan Nam VN -
Lưu Văn Nguyên VN -
Trần Thị Diệu Tâm Paris -
Nguyễn Thạc VA -
Nguyễn Văn Thành CA -
Hồ Thanh Tâm VA -
Nguyễn Quang Tuyến VN -
Phạm Kế Viêm Paris -
❖
Class 68-69❖
Nguyễn Duy Thạnh Belgium -
Trần Đức Trung TX -
Lê Thị Thủy Yến CA -
❖
Class 69-70❖
Ngô Gia Bảo WA -
Trương Anh Dũng TX -
Trương Chí Dũng VN -
Trần Ngọc Khanh CA -
Nguyễn Thị Thanh Liêm CA -
Phan Xuân Lâm VN -
Huỳnh Thành Phước NY -
Phạm Thị Bích Thủy Frankfurt -
Nguyễn Văn Trịnh VN -
❖
Class 70-71❖
Đỗ Thị Hồng VA -
Lê Thị Bích Nga VA -
Phạm Thị Hiếu CA -
Phạm Văn Hùng CA -
Nguyễn Thị Minh Trang
Germany-
Trần Văn NC -
❖
Class 71-72❖
Huỳnh Phi Hùng VN -
Phạm Khánh VA-
❖
Class 72-73❖
Đỗ Kim Anh VN -
Lê Thái Bình VN -
Nguyễn Cao Bộ CA -
Trần Thị Cam VN -
Đặng Thị Cung CA -
Hoàng Ngọc Dũng AU -
Trần Công Độ VN -
Nguyễn Thị Gái VN -
Phương Thu Hà CA -
Bùi Hải VA -
Nguyễn Thị Kim Hiền CA -
Phùng Hoài FL -
Thái Thị Hoàng VN -
Lê Thị Tú Hoè VN -
Lê Hùng VN -
Nguyễn Đình Hùng Sidney -
Nguyễn Nam Hùng TX -
Phạm Quý Huyến CA -
Nguyễn Thị Huyền Ma Soeur(HMS) FL -
Nguyễn Hương Huyền WA -
Nguyễn Thị Minh Hương VN -
Trần Khang Paris -
Lê Thị Song Kim VN -
Châu Ngọc Lan VN -
Lê Thị Lan CA -
Phan Thị Lan CA -
Lương Lập VN -
Tôn Nữ Hạnh Liên VA -
Lê Thị Kim Liên VN -
Hồ Thị Minh WA -
Đỗ Thị Mùi CA -
Vũ Tiến Nam Melbourne -
Nguyễn Thị Ngọc A VN -
Phạm Thị Nguyên Nhung VN -
Trần Nguyệt Nga CA -
Trần Văn Ninh VN -
Dương Quang Phước VN -
Nguyễn Văn Phước VN -
Nguyễn Văn Phước Utah -
Nguyễn Thị Bích Phượng VN -
Nguyễn Thị Quang VN -
Lê Xuân Quý VN -
Mạch Sĩ VN -
Phạm Văn Tuệ VN -
Lê Ngọc Tảo VN -
Trần Băng Thanh CA -
Bùi Thị Phương Thanh VN -
Hoàng Hôn Thắm TX -
Nguyễn Thắng UT -
Lê Nguyệt Thu VN -
Phan Kim Ánh Thu CA -
Thanh Thuý VN -
Tống Thị Tín VN -
Nguyễn Thị Minh Trang SJ-CA -
Trần Ngọc Trang VN -
Võ Diệu Trí VN -
Bùi Thanh Tuấn VN -
Hoàng Thị Thanh Vân VN -
Phạm Thị Thu Vân VN -
Nguyễn Tường Vân CA -
Nguyễn Tiến Vinh CA -
Nguyễn Tất Vui VN -
Lương Xuân Yến VN -
❖
Class 73-74❖
Chử Nhất Anh VA -
Chử Nhị Anh VA -
Chử Tứ Anh VA -
Huỳnh Ngọc Anh VN -
Nguyễn Ngọc Anh VN -
Trần Thị Thu Cúc VN -
Đinh Cường VN -
Phạm Minh Cường VN -
Lê Thị Dậu Bocholt -
Khúc Thị Xuân Dung VN -
Nguyễn Thị Dung VN -
Dương Quang Dũng Paris -
Nguyễn Thanh Dũng VN -
Võ Hoàng Đa CA -
Nguyễn Phước Bửu Đàn CA -
Trần Văn Đồng VN -
Trần Ngọc Hiệp VN -
Nguyễn Đắc Hớn VN -
Bùi Mạnh Hùng VN -
Huỳnh Quốc Hùng Québec -
Lê Thị Hường VN -
Võ Tấn Hưng VN -
Nguyễn Hùng VN -
Vương Thị Lan VN -
Trần Quốc Lăng CA -
Nguyễn Thế Liêm VN -
Trần Ngọc Liên CA -
Nguyễn Kim Long VN -
Trần Phi Nga GA -
Trần Văn Lợi VN -
Nguyễn Thị Lượm VN -
Trương văn Trung/Minh VN -
Văn Công Nam VN -
Nguyễn Thị Nga VN -
Đặng Phước Ngọc VN -
Đặng Mậu Phước VN -
Lê Thị Tuyết Phượng CA -
Đinh Anh Quốc VA -
Huỳnh Kim Sang TX -
Trần Văn Sanh WA -
Nguyễn Hoàng Sơn CA -
Nguyễn Đình Tài VN -
Nguyễn Văn Tâm VN -
Khiếu Thắng WA -
Bùi Đức Thanh CA -
Trần Mai Thanh CA -
Nguyễn Ngọc Thanh TX -
Nguyễn Chấn Thành VN -
Nguyễn ThịThành VN -
Nguyễn Thị Kim Thành VN -
Bùi Thanh VN -
Nguyễn Thị Thảo CA -
Đào Kim Thọ/LêvănHoàng VN -
Đỗ Viên Thông CO -
Đỗ Thị Thu VN -
Nguyễn Viết Thới VN -
Nguyễn Văn Thuận VN -
Ngô Văn Thuỷ VN -
Phan Kim Thanh Thủy CA -
Nguyễn Thị Thu Thủy VN -
Phan Thị Thu Thủy CA -
Trương Thị Thanh Tịnh OH -
Nguyễn Thị Minh Trang CA -
Đỗ Đình Trung VN -
Trần Ngọc Tuấn VN -
Trần Thị Bạch Tuyết VN -
Nguyễn Viết Vũ VN -
Trần Thị Ngọc Yến VN -
❖
Class 74-75❖
Dương Ngọc Hiệp VN -
Nguyễn Thị Đồng Hoa VN -
Hàng Ngọc Hiền VN -
Hàng Ngọc Hương VN -
Phan Thị Hương VN -
Trần Mỹ Lệ VN -
Phan Thị Bích Thủy VN -
Phạm Thị Thu Trang VN -
Trương Thị Thanh Thúy VN -
Nguyễn Thi VN -
Nguyễn Thị Thư TX -
Nguyễn Thị Tuyết VN