Văn-Trần Văn Sanh-3

MỘT BUỔI SÁNG BÌNH THƯỜNG

Trần Văn Sanh

Một buổi sáng bình thường bắt đầu vào khoảng sau 5 giờ sáng, cái thói quen dậy sớm đã có từ lâu, chả phải đợi đến tuổi già xế bóng (và bụng phệ) rồi mới sinh ra khó ngủ. Nếu tạm trú nhà người cậu ở Phú Nhuận thì sau khi đi bộ sang chợ Trần Hữu Trang, tôi hay mua vài gói xôi hoặc một, hai phần bánh cuốn về ăn sáng chung với cậu. Ngoài cái thú đi tản bộ buổi sáng sớm, khi xe cộ chưa đông và đường phố còn thưa người, tôi muốn tận mắt tường tận thấy cuộc sống đời thường của dân ở đây, những người đang sống trong một thời kỳ chuyển biến, đang xẩy ra một cuộc di tản ngấm ngầm nhưng sẽ mang nhiều thay đổi trong khoảng thời gian ngắn sắp tới. Nhưng bây giờ, đa số vẫn lặng lẽ, lầm lũi sống cho qua ngày, đến đâu hay tới đó, một phong cách của người dân miền Nam vốn có từ ngàn xưa.

Đi băng ngang qua những ngỏ hẻm bây giờ khá sạch sẽ hơn mười, mười lăm năm trước - không còn những con đường đất lầy lội cho dù không cơn mưa. Những gánh hàng đủ loại được bầy bán cùng khắp các ngõ, nơi nào có chỗ trống là sẽ có người bán điền vào, nếu không bữa nay thì cũng ngày mai; chỉ có những người đã từng buôn bán, hiện diện ở đây lâu đời thì những chỗ đó coi như đã được "hợp thức hóa", như chỗ của hai vợ chồng ngồi bán cá ở góc hẻm này, lần nào đi qua cũng thấy họ đã bầy biện, sắp xếp và chặt cá để bán cho khách đi chợ ban mai; đôi lúc buổi trưa có việc đi ngang, tôi không còn thấy họ ngồi ở đó, công việc thật nhàn nếu họ không phải làm thêm hay buôn bán với một nghề nào khác, nhưng sự thật - có lẽ sau buổi chợ sáng, họ còn phải làm một việc nào đó, chứ làm sao trang trải nổi khi mọi thứ đều leo thang, leo giá hà rầm mỗi ngày! Vào bên trong chợ gần khu bán thịt bò, thịt heo là khu ăn sáng dành cho bạn hàng và những người đi chợ, nơi có nào là bún Riêu, Bún Mộc, Bún Bò Huế, Bánh Cuốn, cơm sườn thịt nướng, v.v... Quán mà tôi thông thường ghé mua nhất là quán bán Bánh Cuốn, vì nó ngon theo kiểu người Bắc đúng ý mẹ tôi nhất, và giá thì "rẻ sình!" chưa tới một đô la cho Việt kiều; chứ một phần ăn giá 20 chục ngàn đồng có khi còn đủ tiền chợ cho cả gia đình bốn, năm người. Lần về năm 2012 vừa rồi thật xui cho tôi - mà hên cho người chủ bán hang - vì người ta nói bà ta đã xuất ngoại sang Mỹ theo diện đoàn tụ cả năm nay.

Xoay qua hàng bán cơm tấm và bún thịt nướng bên cạnh thì anh chồng còn đang bận rộn nướng thịt, chiên chả giò, coi bộ sẽ là một ngày bận rộn lắm đây. Tôi cũng cầu mong vậy.

Trên con đường về nhà, tôi ghé tạt qua hàng xôi quen thuộc. Lần nào về cũng thế, mỗi sáng tôi thường hay mua mấy gói mở hàng cho cô nàng bán xôi, dặn gói sẵn để khi tôi quay về sẽ ghé lấy. Cô bán xôi người miền Nam nên tánh tình rất vui vẻ, mừng rỡ mỗi khi nghe tin tôi về thăm Việt-Nam từ mấy đứa em họ. Vừa gặp mặt, cô tươi cười giọng rổn rảng:

- Anh mới dìa tối hôm qua phải hông? Chèn ơi ba năm gồi mới gặp lại thấy anh hổng gì là thay đổi....

Chu cha ơi! gần sáu chịch mà nghe câu nói đó khiến tôi chỉ biết cười và nói tiếng cám ơn, hỏi thăm qua loa về sự buôn bán cùng đời sống của cô nàng rồi trả tiền, và sách mấy gói xôi về cho mấy đứa cháu kẻo chúng sắp sửa đến giờ đi học.

Sau màn ăn sáng với cà phê, cà pháo - kế tiếp là tôi kéo chiếc ghế nhựa ngồi giữa sân đọc báo, ngoài những tin ruồi bu - như xe cán chó, vợ đánh ghen, tai nạn xe cộ - xem những chuyện thế thái nhân tình, chuyện thế gian đi đến đâu. Mà cũng chả gì lạ, quanh quẩn ngoài những tin xã hội có thể xẩy ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới, còn lại toàn chuyện có thật mà tưởng chừng như hư cấu của một Nông Trại Thú Vật ("Animal Farm" ) do nhà văn George Owell viết từ năm 1945. Đọc báo là một cái thú tôi đã có từ lâu, không rõ là vì sao hay bắt đầu từ lúc nào, nhưng tôi còn nhớ lúc vào khoảng thời gian vừa lên lớp đệ Thất, đệ Lục gì đó - mỗi buổi chiều sau khi ba tôi đặt xuống tờ báo ông vừa đọc xong, tôi luôn luôn xí trang giải trí mà trong đó có mục truyện ngắn, truyện dài, và nhất là truyện dài kiếm hiệp, rồi đọc ngấu nghiến, đọc nghiền ngẫm. Cái Tết năm Mậu Thân (1968) đến một cách thảm khốc, tôi dần dà bắt đầu chú ý hơn về trang đầu của những tờ báo như Chính Luận, Sóng Thần, nơi ngày nào cũng có những dòng tít lớn, đăng rầm rộ về những tin chiến-sự nóng bỏng, những biến chuyển trong chính phủ trong và ngoài nước liên quan đến cuộc chiến, tôi đâm nghiện đọc báo từ dộ ấy. Nghĩ lại cũng buồn cười khi Thúy-Hoa sau này thú nhận rằng nàng chưa bao giờ thấy một người con trai nào, trong ngày đầu tiên hò hẹn với đào mà áo quần thì bơ đời, nếu không muốn nói là quá xoàng so với những người con trai khác thường hay tán nàng - đã vậy tôi còn kẹp tờ báo bên nách và đến trễ cho dù chỉ là một, hai phút. Rõ ràng là một cuộc tình bắt đầu đã chả giống ai ngay từ ngày đầu!

Năm 2012 về tôi thường ở nhà thằng em, nó thuê một cao ốc mặt tiền trên con đường Trần Quang Khải, khu quận Nhất - cho nên cái thú ăn sáng đọc báo của tôi cũng bị thay đổi, nhưng bao giờ cũng thế - Thúy-Hoa luôn dậy muộn mà tôi lại vừa ngủ ít mà còn hay thức giấc và ăn sáng thật sớm. Trên con đường băng ngang qua khu chợ Tân-Định đi uống cà phê mỗi buổi sáng, tôi thường không gặp hắn, nhưng khi trở về lúc khoảng hơn 8 giờ sáng thì thấy hắn đã nằm đó ngon giấc ngủ khoèo từ hồi nào, cũng ngay tại chỗ này, mặc kệ cho những gì đang xẩy ra xung quanh như cô bán hàng trái cây dựng lại chiếc xe mà có lúc bánh xe phía trước xém cán vào bàn chân của hắn. Hiện tại, nhiều người đã và sẽ có điều gì phán xét về cuộc đời của hắn, nhưng chỉ cần vài năm hay chục năm sau thôi, hắn và cả những người đã sót thương hay chê cười hắn sẽ cũng như nhau, chỉ còn là một nắm tro tàn trong cát bụi, còn lại chăng là những gì ta đã suy ngẫm, học hỏi mang theo được từ một cõi vô thường này.

Trước khi vào quán cà phê, tôi ghé tiệm bánh Như-Lan trên đường Hai Bà Trưng, họ còn có một chi nhánh nữa ở đường Hàm-Nghi, nơi tôi thường hay mua bánh và thức ăn đi dọc đường trước khi mỗi chuyến đi xa, tuy hơi đắt nhưng đồ ăn ngon và hợp vệ-sinh; tôi gọi mua một ổ bánh mì thịt với đủ thứ trong đó rồi bước vào quán Trung Nguyên, nằm xéo về phía cửa chợ Tân-Định, gọi cho mình một ly cà phê sữa đá và lấy tờ báo vừa xem tin tức vừa ăn sáng trong lúc chờ ly cà phê mang đến. Một cái thú của không những của riêng mình tôi mà có lẽ của cả thành phố, vì nhìn quanh tôi thấy ai ai cũng chúi mũi vào tờ báo trong lúc trên bàn thì đồ ăn thức uống cũng đã sẵn đó.

Sau khi đọc báo và ăn sáng xong, tôi thích ngồi nhìn quang cảnh, đời sống nhộn nhịp xẩy ra phía bên dưới - trên con đường Hai Bà Trưng - mới hơn 7 giờ sáng mà đã thấy xe cộ và người đi chợ bắt đầu đông, nườm nượp qua lại như một tổ kiến khổng lồ.

Đó là một buổi sáng, một thói quen thật bình thường của tôi khi còn ở Sàigòn, mà có lẽ nó cũng chẳng khác gì so với những buổi sáng đã cách đây hơn ba mươi tám, trên bốn mươi năm về trước. Chẳng khác chi mấy ngày xưa, khi còn tuổi thanh-niên, ngồi ăn sáng uống ly cà phê dưới những hàng cây lá me "con đường Duy-Tân, cây dài bóng mát", tôi thường hay ngẫm nghĩ về tương lai sau này của mình, của đất nước. Bây giờ cũng thế, có khác chăng là cái tuổi đời đã ngày càng gần đất xa trời, nhưng bù lại tôi thấy mình càng hiểu rõ mình và cuộc đời nhiều hơn. Thế còn bạn, một ngày bình thường của bạn như thế nào?

SVT

Về đầu trang


Một Kỷ Niệm Uống Cà Phê Buổi Sáng

Trần Văn Sanh

Sáng nay dậy tự dưng thèm một ly cà phê, không phải thứ cà phê Starbucks, mà là một tách đờ-mi của quán Đô-mi-nô ở con đường Phan Bội Châu, Đà Lạt. Đó là cái thưở còn nghèo rớt mồng tơi, rớt phơi cuống rún khi còn lang thang một mình ở phố núi. Hôm nào xịn còn chút tiền rủng rỉnh, tôi thích dậy thật sớm đi bộ suốt từ cuối bờ hồ để tiết kiệm tiền, thay vì leo lên chiếc xe buýt con voi chạy từ trại Hầm, để lên phố vào ngồi trên chiếc đòn gổ trong một góc quán, gọi ly cà phê sữa - không phải ly lớn bình thường - mà chỉ là ly đờ-mi nhỏ bằng một nửa, vì muốn dồn tiền ăn thêm cái bánh Croissand còn nóng hổi mới đem về từ lò bánh gần trường trung-học Việt-Anh cuối con dốc Duy-Tân. Thưở đó thấy mấy ông già tuổi gần đất xa trời ngồi quây quần nói chuyện nắng mưa, mưa nắng, trông họ chỉ chừng khoảng trên tứ tuần dưới lục tuần mà đă thấy họ sao già nua cằn cõi, thoáng vậy mà giờ mình cũng đã chừng ấy tuổi, nhìn lại tấm hình mà không hiểu rằng là mình đang thèm một ly cà phê hay mong thèm được quay về với quá khứ?

Tại sao người già thường hay tìm về với quá khứ nhỉ?

Đó là cái thắc mắc mà mãi mấy chục năm sau mình mới thấm hiểu, chẳng qua chỉ là "vì quá khứ còn nhiều hơn tương lai", trong khi vài năm cuối đời thì có gì gọi là đáng để nhớ nếu muốn, bởi thế cho nên có một dịp, một câu chuyện, một hình ảnh tình cờ nào đó...nó rất dễ thường hay đưa con người ta quay trở về với dĩ vãng, với kỷ niệm - nhất là những tháng ngày đã một thời sống trong khung cảnh êm đềm và dịu dàng nơi tâm khảm, mà tôi nghĩ trong đời của nhiều người được may mắn đi học, có lẽ không có thời gian nào tuyệt đẹp bằng khoảng thời gian còn mài đũng quần ở dưới mái trường - vì đó còn có biết bao nhiêu là tình thân của bạn bè, của những mối tình mới lớn, những chuyện tình đơn phương, câm nín.

Thưỏ đó, tôi từng chứng kiến biết bao nhiêu chuyện tình vụng dại của tuổi học trò, trong đó có một chuyện tình của một anh chàng đi lính Địa Phương Quân, sau trở thành một nhà văn khi sang nước Mỹ, vì yêu một cô con gái của một tiệm bán đồ điện gần cây cầu trên con đường Ba Tháng Hai bây giờ, anh chàng thường kiếm cớ ghé mua một cây tuộc-nơ-vít mỗi lần muốn gặp nàng, đến khi hai người quen nhau rồi thì chàng khiêng cả một thùng đồ chàng mua trước đó để tặng lại. Đó là một chuyện tình lãng mạn, chứ tôi quen một thằng bạn khác, nhà nó bán phở bên cạnh nhà bán vật liệu sửa sang nhà cửa như đinh, ốc, sắt, kẽm...mà cô con gái hàng xóm chịu đèn thằng này. Một hôm tôi đến đón nó cùng đi học, hai thằng ghé xe bán bánh mì ở gần nhà gọi mua hai ổ bánh mì thịt để ăn sáng, gặp cô bé hàng xóm cũng đi học ghé ngang, thấy thằng Đình bèn xáp lại hỏi chuyện:

- Nhà có phở ăn ngon thấy mồ, sao Đình lại mua bánh mì chi nữa?

Thằng bỏ mẹ hôm đó mắc cái giống gì không biết, khi không cu cậu sửng cồ:

- Thế còn cô, nhà bán đinh sao không ăn đinh sao lại đi hỏi tôi?

Tôi thấy hôm đó thật tội nghiệp cho cô bé hàng xóm biết mấy, vừa quê vừa giận cô nàng bỏ đi một mạch chẳng thèm quay lại. Cái thằng khỉ gió bình thường nhát gái như quỷ gặp thánh giá, vậy mà hôm đó bỗng dưng lại đâm ra dở quẻ. Trên đường đi nó bảo, ở nhà chỉ nội ngửi mùi phở là đã ớn tới óc, nhưng tôi mắng nó - "mày mới vô duyên, người ta muốn kiếm chuyện làm quen, không biết nói gì thì câm mõm, ai lại nói thế với con gái bao giờ!". Thằng này hoàn toàn trái ngược với tên Sơn tôi quen ở xóm Phạm Hồng Thái, bạ ai hắn cũng tán. Nó hay rủ tôi đi hái hoa Cúc trắng trên con đường đến trường, hôm thì gửi vài cành hoa đến nhà cô này, hôm thì nhà cô khác...trong đó có cả cô bé tên Thúy-Phượng, lúc đó khoảng chừng 14, 15 tuổi trên con đường Minh Mạng (nay là Trương Công Định) và cô nàng tên Thu - tiệm bán đồ điện vừa kể. Lúc hai thằng còn học ở trường Việt-Anh thì nó hay "giao hàng", đá lông nheo với cô nàng, vì trường cũng gần xịt đó. Một lần, không biết cái thằng phải gió đã tán hươu, tán vượn gì với Thu, lúc nó trở lại chỗ tôi đứng trước cửa chờ, thằng khỉ cười khoe:

- Ê, hôm nay có tiền uống cà phê rồi, đi.

Hai thằng ghé vào một quán cóc gần trường, tuy không ngon và đậm đà bằng ở quán Đô-mi-nô, nhưng mấy hôm không được uống vì túi rỗng tuếch, hai thằng vừa nhâm nhi ly cà phê, vừa ca bài "có còn hơn không, có còn hơn không..." trước khi đến giờ để ù té chạy vào trường.

Về đầu trang



MỘT MAI RŨ ÁO TỪ QUAN

Trần Văn Sanh

Hổm rầy đọc qua những email nhắc đến ngày về hưu, dưỡng lão, khiến tôi lại động lòng và "nhì định" là sang năm đúng ngày sinh-nhật của mình (hay sớm hơn tùy hứng) - rằng sẽ "rũ áo từ quan", từ bỏ những ngày cặm cụi ngồi hàng giờ trước cái máy tính, làm những việc tôi thấy đã bắt đầu nhàm chán, ngao ngán hơn hai năm nay. Th-Hoa số hên, sướng hơn - về hưu từ hè năm 2005 khi tụi này bán cửa tiệm sau gần chín năm "sung sướng" được làm chủ.

Một mai rũ aó từ quan sắm chiếc mô-tô, ta chở nàng lang thang khắp ngã đường đất Việt thấy đời nhẹ gánh lòng thênh thang...

Tấm hình này chụp năm 2012 trên con đường đi đến Dốc Lết ở Nha-Trang, sau khi TH được đoàn tụ với một số bạn học cũ của LY74 ở ĐL, và sau khi đã gặp lại Như-Hoa, người đã mách bảo chỉ cho một chỗ tắm bùn mới mở, nên cả hai được hưởng gần một ngày hết tắm bùn rồi tắm đủ loại nước khoáng, bơi lội và tẩm quất bởi dòng thác đổ, nói tóm lại một ngày thật yên bình và thư giản. Hè vừa rồi xuống OC chơi, gặp người bạn được sở cho về hưu non, tôi ước giá mà sở cũng gọi mình vào văn phòng và giao cho cái phong bì dầy cộm (cóc phải toàn tiền bạc) mà đầy những giấy tờ và thủ tục nghỉ việc, nhưng rốt cuộc đó chỉ toàn là mơ hão! Thực tế thì có lẽ số tôi vẫn còn bị giời đầy - cho nên còn phải kéo cầy - vì mới cuối tháng tư vừa rồi, khi Tổng Giám Đốc của hãng từ Texas đến tận chi nhánh hãng nơi tôi làm, cho biết có một cuộc họp khẩn cấp và quan trọng, tôi mừng thầm trong bụng vì chuyện hãng cắt bớt người, sa thải thường là kết quả sau những buổi họp "khẩn", cấp tốc như thế. Quả nhiên, sau khi tuyên bố rằng sẽ đóng cửa chi nhánh và sa thải 95% nhân-viên ở đây, tôi và bốn người nữa thoát cái lưỡi hái tử thần thấp nghiệp, nhưng từ ngày đó trở đi phải làm việc ở nhà, hay bất cứ ở đâu có mạng Internet là tôi cũng có thể liên lạc và làm việc cho sở. Nhiều người quen không biết đã nghĩ "Úi dào! làm việc ở nhà sướng nhá!"- cóc biết vì chỉ 5 mạng còn lại (tuần trước một người mới quỵt công việc, đầu quân cho hãng mới), công việc tăng gấp mấy lần, có khi ngồi chết dí với cái máy vi-tính cả hàng mấy giờ đồng hồ, ê cả mông, chán bỏ sừ ! (nhưng được một điều là lúc rảnh rỗi, với cái máy của mình kế bên cạnh, tha hồ mà lướt Net, chát chiếc mà cóc sợ bị phát giác - có khi vào phòng nằm nhắm mắt được nửa tiếng, một tiếng - hoặc tán dóc với bà nội thằng Logan :) Công việc lương ngon lành và sướng như thế mà tại sao lại muốn nghỉ ngang xương. Mấy đứa em tôi và em vợ vẫn hay thắc mắc mỗi khi nghe tôi hăm dọa, nhắc về chuyện "rũ áo từ quan". Mấy đứa cóc biết là mới cách đây hai ngày, tôi đọc một bản tin nói về những người về hưu non (trước 60) thì cơ hội để sống lâu hơn những người đợi cho đến 65, 67 mới về hưu cao đến 25%. Nghĩa là nếu tôi về hưu lúc 60 thì thánh Phê-Rô phải chịu khó chờ đến khi tôi ít nhất đạt chỉ số 85 - 90 rồi mới được gọi tên, điểm danh - và những người về hưu cỡ 65 hay 67 tuổi thì khá lắm chưa quá 80 tuổi là đã leo lên bàn thờ ngồi ! Ngẫm lại thời còn làm cho hãng Boeing, nhiều kỹ sư ở đó sau khi về hưu lúc được 65; rồi chỉ ba, bốn năm sau tôi đã nghe tin họ ngỏm củ kiệu! bởi vì hồi còn trẻ làm việc quá ư là hồ hỡi...ơi! Dân Mỹ thế đấy. Làm việc thì cật lực, quên ăn quên ngủ. Đến khi chơi thì cũng chơi tới nóc, nhiều khi chơi trội, táo bạo hơn thiên-hạ nên nhiều nước trên thế giới thường ghen tị và hay chê dân Mỹ cóc biết sống. Tôi nghĩ, cái văn-hóa này người Việt mình gọi là "Thà một chút huy hoàng rồi chợt tắt", nhưng họ biết cái giá phải trả.

Riêng tôi thì có một lý do "cao cả" hơn, máu giang hồ của tôi ngứa ngáy, bị vợ con chèn ép, đè bẹp dí đã mấy chục năm nay. Gần đây tôi thấy đến lúc mình phải làm những gì mình muốn làm. Bổn phận con cái đã xong, thằng nào cũng học hành đến nơi, đã có công ăn việc làm và tự cường tự chủ; còn sướng gấp mấy lần bố mẹ nó hồi mới chân ướt chân ráo sang Mỹ, vốn liếng Anh-văn không đủ để đong gạo! Rồi đây rũ áo từ quan đường mây, núi mộng có thênh thang ? hay chỉ là chuỗi ngày buồn tẻ đợi đến thiên-thu, đợi suối vàng… Cái đề tài về VN để hưu trí đã bắt đầu dồn dập xuất hiện trên mọi ngành truyền thông, nhất là trên mạng NET hơn chục năm nay. Những chuyện dở khóc dở cười bạn bè đã từng nói xẩy ra nhan nhản, không chỉ riêng cho dân Việt mà cả dân Mỹ, nhưng phải công nhận mà nói - người Việt mình nặng lòng vì tình cảm gia đình, họ hàng cho nên xẩy ra nhiều cớ sự, phiền toái hơn. Đó là chưa kể về những vấn đề "nhậy cảm" khác bên VN , mà nghĩ đến cùng tận, thì chẳng qua đã sinh ra ở cõi đời này thì mọi việc "it came with territory", một câu thành-ngữ của Mỹ mới đầu nghe sẽ không thấy thấm, nó tựa như câu "C'est la vie" của mấy ông Tây bà đầm, nhưng càng nghĩ nó càng sâu xa hơn, thấm thía hơn

Những năm đầu đi làm ở Mỹ, tôi thấy thiên-hạ dùng nhiều đòn phép, chiến thuật chơi nhau để leo thang với chức vị, lương bổng. Một người bạn mới lên làm xếp chỉ hơn một năm mà đầu đã thấy tóc bạc, mấy tên Mỹ con mới vào hỏi: tại sao hắn già nhanh chóng thế? Tôi cười bảo: "muốn leo lên chức cao, thì trách nhiệm lẫn phiền toái, lo lắng và nhức đầu thường đi đôi - tựa như nếu mày cứ vào sâu trong rừng thì sớm muộn rồi thì cũng gặp thú dữ, cọp dữ. It came with territory." Đã đến với cuộc đời này thì bệnh, lão, tử là điều tất nhiên. Trong khoảng giữa, sen kẽ là những công việc mình phải làm, đến lúc thấy không cần phải lo miếng ăn, chỗ ngủ nữa thì tội vạ gì đeo mang trên người. Nghĩ như thế, chuyện rũ áo từ quan là một chuyện mình nên hồ hỡi làm, không sớm thì....sớm hơn càng tốt :)


Ngày ta rũ áo từ quan
quên hết đau thương, chuyện hợp tan
ngẫm đời vốn chừng như gió thoảng
trăm năm thoáng chốc đã ngút ngàn.

Cùng nhau rũ áo từ quan
về thăm hồ xưa để Thở Than
kiếp này mình..xui, nên duyên nợ
càm ràm đi đâu, thiếp với chàng!

Về đầu trang



MỘT THỜI OANH TẠC...LÀM CHỦ TIỆM

Trần Văn Sanh

Chỉ có một số ít bạn thân, trong gia đình, họ hàng thì khỏi nói - biết hai vợ chồng tôi có một thời làm chủ tiệm nhà hàng, nhất là biết tỏng ông cụ rằng bà chủ vốn từng xuất thân là một tiểu thư, chưa hề biết nấu nướng (luộc trứng, nấu mì gói miễn kể), "ông chủ" thì đang làm ngành IT, nhiều khi phải trực 24/7. Vậy mà dám ra mở tiệm ăn, mà theo thống kê xác xuất của Bộ Thương Mại thì hơn 90% cơ sở làm ăn nhỏ thường hay bị đóng cửa, sập tiệm trong vòng 12 tháng đầu tiên. Nói gì đâu xa, chíng bà chủ tiệm ăn bán lại cho tụi này cũng chỉ "lên ngôi" làm chủ - từng là một chân đầu bếp chính - được hơn 6 tháng, chịu không thấu đành phải bán lỗ, bỏ của chạy lấy người. Ít ai ngờ rằng tụi tôi đã "trị vì", cai quản cái tiệm được gần 9 năm trời, giải nghệ cho bà chủ về hưu sau khi mấy thằng con - đứa đã ra trường, đứa thì sắp sửa tốt nghiệp ĐH.

Hai thằng út, tôi và người bạn thân ngày khai trương tiệm.

Sở dĩ tôi có cái quyết định mở nhà hàng cũng đã hơn 5 năm về trước ( khi vẫn còn đang làm ở hãng BOEING với chức vụ làm thầy cai (Lead) của một nhóm Software Engineers) với 3 nguyên do, mà nguyên do cuối cùng, hay gọi là giọt nước cuối cùng làm vỡ bờ - đưa đến chuyện mở nhà hàng.


1) Tạo kinh nghiệm cho mai sau khi trở về VN (kế hoạch 20 năm)
2) Tạo công ăn việc làm cho 4 thằng con (kế hoạch 10 năm)
3) Tạo vốn cho chuyện về hưu non (kế hoạch 5 năm)

Đi ngược lại thứ tự ở trên, trong thời dotcom, ai có kinh nghiệm trong ngành IT với ít nhất 5 năm trở lên thì công việc không những dễ kiếm mà lại còn được tăng lương nhanh chóng, không những thế - chuyện tăng lương hàng năm từ 20% 50% là chuyện thường.

Trong lúc đó, BOEING lại tăng lương cho nhân viên IT rất ít, tuy những quyền lợi khác

Về đầu trang




Mùa Giáng-Sinh Xưa

Trần Văn Sanh

Tôi tưởng năm đó Đông sẽ cùng tôi đón mừng ngày Chúa chào đời và hai đứa đi dự thánh lễ nửa đêm ở Đà-Lạt, như hắn có lần bảo đã từng nếm và chán ngấy những đêm Giáng-Sinh đầy xô bồ, náo nhiệt ở Sàigòn, nhưng vẫn luôn đi lễ đêm trọng đại đó để nhắc nhở về một sự hy sinh vì lòng yêu thương nhân loại. Vậy mà trước khi cái nắng tàn tạ của buổi chiều chưa kịp tắt trên thành phố núi, con nhỏ Vân đã hối hả chạy qua báo tin rằng hắn đã biệt tăm, hỏi người chủ nhà thì người ta bảo "Cậu ấy đã xuống Nha-Trang từ sáng sớm, đi thăm người bạn vừa bị thương từ chiến trường trở về". Bề ngoài tôi cố ra vẻ bình tĩnh, buông câu "Rồi sao! hắn đi đâu mặc gì đến tao!" - tôi nói vội vàng như muốn ngăn con tim khi không hụt hẫng, làm như mình vừa mới bị tình phụ - đoạn bảo nó đi rủ thêm con Yến-Ngọc và Ánh-Hồng, cả bốn đứa sẽ đi dạo quanh phố rồi bách bộ lên khu nhà thờ con gà xem những cặp tình nhân đưa nhau đi lễ nửa đêm, sau đó ghé ấp Ánh Sáng ăn bún Bò Huế hay tô Mì Quảng dằn bụng để đi chơi tiếp, rồi trước khi ra về sẽ ghé tiệm kem ở dốc Ngọc Lan, ngồi ăn và nhìn thiên hạ đi lên xuống khu chợ Hòa Bình. Thưở đó bạn bè gọi bốn đứa tôi là băng "Tứ Cô Nương" của trường Bùi Thị Xuân mà tên con trai nào xui xẻo lỡ héo lánh đến đó, rồi lỡ nhào vô tán tỉnh một trong bốn đứa là coi như sẽ bị cả bọn mổ xẻ tim gan phèo phổi của những tên này, và sau khi bị bọn tôi đùa giỡn xong sẽ đóng đinh mấy tên cù lần trên cây thập tự của ái tình mà không chút thương hại.

Có lẽ vì thế nên bị Chúa phạt khiến cho tôi gặp hắn.

Định mệnh đưa đẩy cho hắn đến nhà tôi một hôm với người bạn tên Lâm, đó là tên thợ khắc chữ lưu niệm thường hay bỏ mối cho các sạp ở chợ Hòa Bình để bán cho du khách. Lâm nổi tiếng ở phố Đà-Lạt là bạ ai cũng tán, và hắn biết mẹ tôi có một cái quán bán len và áo len ở trong chợ, và cho bạn hàng vay tiền mà chỉ lấy chút ít lời tượng trưng mỗi khi họ kẹt vốn, cho nên nhiều người thường xuyên đến nhờ cậy. Lâm đến giới thiệu và bảo rằng bạn hắn mới nhận được cái bưu phiếu 5 ngàn do người nhà gửi lên buổi chiều sau khi Bưu-Điện đã đóng cửa, đó lại là ngày thứ Sáu mà phải đợi đến sáng thứ Hai khi công sở mở cửa làm việc, như thế thì từ đây đến hết cuối tuần cả Lâm và bạn hắn sẽ đói meo vì không biết ai sẽ "cầm" dùng tấm bưu phiếu. Lâm đề nghị là bạn hắn chỉ cần một ngàn để chi dùng, rồi sáng thứ hai sẽ cùng mẹ của tôi lên Bưu Điện để lãnh và trả lại một ngàn cộng với chút tiền lời, coi như là lòng biết ơn của người bạn của Lâm. Chuyện tiền bạc kể ra đối với mẹ tôi chẳng thành vấn đề, mẹ lại rất thông cảm khi nghe nói hắn xa nhà lên Đà Lạt để học thi tú tài, nhưng khi thấy Lâm ngỏ lời nửa khen, nửa như tán tỉnh khi thấy tôi bưng khay nước ra mời khách, mẹ tôi liền chận đứng ngay tại chỗ bằng những câu nói bóng, gió rằng con gái của mẹ sẽ chỉ gả cho bác sĩ, kỹ sư thôi - chứ cỡ người như Lâm và hắn (lúc đó ăn mặc rất xuề xòa, bơ đời) còn lâu mới đụng đến sợi lông chân của cô con gái cưng, đẹp duyên dáng nhất của mẹ. Khi nghe mẹ tôi nói xong câu nói đó, tôi liếc nhìn xem phản ứng của hắn như thế nào, chỉ thấy hắn đang đứng ngó bâng qươ về hướng khung cửa sổ nhìn qua nhà hàng xóm, nhếch miệng cười khẽ. Tôi không biết đó là một nụ cười tội nghiệp cho người bạn bị chê khéo, hay nụ cười khinh bạc, xem thường cho câu nói cao ngạo của mẹ tôi đã ít nhiều làm động chạm đến tự ái của hắn. Trước khi bước ra khỏi phòng, tôi bỗng thấy hắn quay sang nói với mẹ tôi:

- Xin lỗi đã làm phiền đến bác, thực ra cháu cần đến hai ngàn chứ chẳng phải một như Lâm vừa nói, nhưng nếu bác bây giờ không có đủ thì cũng chẳng sao, cám ơn bác đã tiếp tụi cháu. Xin phép bác cháu về.

Đoạn tôi thấy hắn nhẹ nhàng khều, kéo tên Lâm đi; gọi là nhẹ nhàng nhưng tôi thấy Lâm có chút nhăn nhó khi cánh tay của hắn làm như đang bị một gọng kìm bóp chặt chỗ khủy tay. Từ đầu đến lúc ra về, hắn chẳng quay nhìn về phía tôi chào hỏi đến một lần, khiến tôi cũng hơi bị chạm tự ái và nổi máu tò mò, định bụng muốn biết cái tên lạ hoắc, lạ huơ này đã từ xó xỉnh nào đến. Tôi nhờ đến nhỏ Vân, nó gan dạ như con trai, một lần đánh tiếng sẽ ở lại sau giờ tan học để đánh lộn với một đứa con gái học khác lớp, đứa đã dám gán cho "Tứ Cô Nương" tụi tôi là "Tứ Cô Hồn". Nhỏ kia nghe lời thách đố nên sợ quá từ đó cũng né luôn chả dám hó hé. Sau một tuần làm thám tử không công, nhỏ Vân về kể lại tiểu sử "dài dòng" - là hắn tên Đông, từ Sàigon lên và ở trọ nhà Lâm, tên khắc chữ gỗ để bán bỏ mối cho mấy sạp bán quà lưu-niệm trong lúc cả hai vẫn còn đi học ở một trường trung học tư-thục. Mấy hôm sau tôi làm bộ như tình cờ ghé đến một gian hàng nhận bán nhiều đồ thủ công nghệ của tên Lâm, đặt cho một cái bảng tên của mình để treo trong phòng học, một cái cớ để có dịp nhìn rõ mặt cái tên đáng ghét.

Tới ngày hẹn, tôi đến chút hơi sớm và bà chủ sạp nói chắc cũng sắp được tên Lâm đem giao hang và rất đúng giờ, tôi nghĩ ít ra tên này cũng biết cách làm ăn chút đỉnh - tuy thế tôi vẫn hơi chút thất vọng, nhưng ít ra nay tôi cũng đã biết cả hai sẽ thường xuyên xuất hiện ở đâu, và trước sau gì cũng chạm mặt nhau trên con phố nhỏ bé này. Ai ngờ, chập sau người giao hàng chẳng phải Lâm mà lại là hắn, vì còn một số hàng đặt làm chưa xong, Lâm phải tiếp tục ở nhà làm và nhờ hắn đem hàng đi giao. Gặp nhau chào hỏi đúng hai câu và biết tôi là chủ của món quà lưu niệm đã khiến hắn phải vội vàng ra phố, hắn làm bộ chép miệng:

- À tưởng ai, biết trước tôi đã chả phải vội...

Rồi không để tôi chưa kịp lên tiếng trả lời, hắn đã leo lên xe phóng đi biệt dạng.

Một con người thật đáng ghét không thể tả. Tôi về nhà mà trong lòng mang nhiều hậm hực, nghĩ hắn là cái thá gì đã khiến tôi phải bận tâm đến thế, tôi cố nghĩ đến chuyện nào khác để quên đi cái bực dọc phi lý mà mãi sau này tôi mới hiểu đó là một trong những tính khúc mắc của đàn bà, con gái mà trời cho chút nhan sắc - thường nghĩ đàn ông con trai mà gặp mình ít nhất nếu không xum xoe, tán tỉnh người ta ra mặt thì cũng phải biết khéo léo, chú ý đến mình một chút. Tôi chưa kịp xua đuổi hình ảnh cái tên Đông khó ưa này ra khỏi tâm khảm thì hai ngày sau, người nhà đưa tôi một chiếc hộp giấy gói ghém trông rất mỹ thuật, bảo rằng có người từ trên chợ đem đến giao món hàng tôi đã đặt. Hơi thắc mắc vì ngoài chuyện hôm nọ ra tôi có đặt ai làm gì nữa đâu? mở bên trong ra tôi giấy một mảnh giấy nhỏ ghi vỏn vẹn hàng chữ: "Xin lỗi nhé, tưởng hàng của du khách đặt nên bạn tôi hơi cẩu thả, làm lại để cho nó xứng đáng với cái tên thật đẹp của cô" - Đông.

Bắt đầu từ hôm đó, tôi chưa bao giờ thấy cuộc đời mình được "hoa lá cành trăng lên lều vải" như thời gian tôi đã gặp hắn - để cám ơn Đông về cái bảng tên hắn bắt Lâm phải cưa theo kiểu chữ thật phóng khoáng, tao nhã – do chính hắn đã phác họa, viết ra cho cái tên của tôi. Sau đó hai đứa thỉnh thoảng thường hẹn nhau đi dạo quanh hồ Xuân Hương trò chuyện, và băng "Tứ Cô Nương" cũng vì thế mà sau giờ tan học tôi thường hay vắng bóng, nên mấy ẻn than trời như bọng! Kệ xác, đứa nào cũng vậy, lúc cô đơn thì bạn bè tíu tít gọi nhau, có kép rồi là biến mất có khi cả tháng, khi có chuyện lục đục hay hờn dỗi thì lại réo gọi nhau đến để tỉ tê tâm sự. Mốt đến phiên họ, tam cô nương đó rồi hẵng hiểu.

******* Bấm nút cho thời gian quay nhanh trở về với hiện tại, mới đó là đã gần bốn mươi năm. Thỉnh thoảng tôi về thăm lại thành phố xưa khi tuổi đời đang mấp mé gần sáu bó, nhưng mỗi lần quay lại chốn thơ mộng mà mình đã từng sinh ra và lớn lên, nhất là lúc đi ngang những quầy hàng bán quà lưu niệm, tôi vẫn chạnh lòng nhớ đến thời vàng son của tuổi trung-học và những cuộc tình của con gái thời mới lớn.

Giáng Sinh năm đó Đông đã không bao giờ trở lại, nhưng tuần lễ sau tôi nhận đuợc một lá thư hắn gửi từ bưu điện ở Huế, xin lỗi rằng sau chuyến đi thăm bạn ở Nha Trang, vừa bị thương từ chiến trường trở về nằm bịnh viện mà cha mẹ đã mất từ lâu, thương bạn cô đơn một mình nằm ở bịnh viện trong đêm Chúa giáng sinh, nên hắn đành lỗi hẹn với tôi, rồi vì công việc cho nên phải đột ngột rời bỏ Đà Lạt, nhưng hắn đã không quên - thay vì lời hứa - viết tặng tôi một bài thơ thật lãng mạn về cái đêm Giáng Sinh mà hắn bảo sẽ đưa tôi đi dự thánh lễ nửa đêm.

Tôi không nhớ rằng hôm đó mình đã khóc bao lâu và thầm nhủ lòng sẽ cố quên đi một kẻ thờ ơ, vô tình đến như thế; nhưng sau một thời gian tạm nguôi ngoai, tôi hiểu rằng hẳn đã không lừa dối tôi - vì hắn đã chẳng hề nói yêu thương tôi ngay từ ngày đầu, đôi mắt hắn thường nhìn xa xăm với phảng phất nét buồn, nhưng tôi đoán non đoán già rằng trong con tim hắn có quá nhiều ngăn, ngăn nào cũng chứa đựng yêu thương, đã yêu nhiều người - khoan, đúng hơn là yêu mọi người, thương hết tất cả, chuyện yêu đương trai gái đối với hắn lúc đó có lẽ chỉ là một trong những biện pháp cho hắn giải khuây, tạm quên đi những gì trắc trở nào đó trong lòng. Chẳng biết sau này Đông sẽ trở thành một thầy tu hay rồi sẽ an phận lấy vợ. Tôi quyết định nghĩ trong đầu cho rằng để hắn đi tu thì quả là không xứng đáng, vì biết đâu ngoài tôi ra còn biết bao nhiêu thiếu nữ với trái tim ngây thơ, vô tội khác lỡ vướng vào cái lưới hắn vô tình giăng bẫy, Tôi nhất định nghĩ Đông phải lập gia đình và có rất nhiều con (như ngày xưa hắn thường mong ước) để bắt hắn phải làm việc kiếm tiền mệt nghỉ! và nhất là hắn phải lấy một cô vợ Bắc kỳ, cỡ sư tử Hà-Đông với một cái loa phóng thanh thật bền bỉ và chạy bằng nguyên tử lực, phát thanh từ sáng cho đến tối để hắn bị điếc con ráy! cho đến khi hắn tu tỉnh và ăn năn - chừng đó số phận hắn đổi hướng và sẽ tình cờ gặp lại tôi, hắn phải quỳ dưới chân để xin được sự tha thứ của tôi; tôi sẽ làm cho hắn lăn lóc đau khổ thêm một thời gian - lâu hay mau còn tùy theo sự thành khẩn của hắn - sau đó tôi sẽ cho phép hắn hẹn hò lại như thưở ban đầu hai đứa quen nhau, nhưng có lẽ cả hai chúng tôi sẽ không còn có dịp trở lại Đà Lạt, mà biết đâu chừng sẽ dắt tay nhau đi dạo quanh khu vườn của một viện dưỡng lão nào đó. Mãi hình dung trong đầu về lối trả thù êm dịu như mật ngọt đầy sự tưởng tượng này, tôi bỗng chợt cười phá lên, làm mấy con chim bồ câu đang kiếm ăn ở cạnh bờ hồ Xuân Hương hoảng sợ vỗ cánh bay xa.

12/2013

Về đầu trang


MỸ THO - DÌA MIỀN QUÊ

Trần Văn Sanh

Gọi là dìa (về) miền Tây, chứ thực ra mấy hôm ở thành phố ngột ngạt, ngứa chân - nhưng nói cho đúng là phần "cu Linh" (gọi là "cu Linh" vì cô nàng chả khác gì cu Lương nhà tôi tí nào! ham vui và có máu giang hồ) cũng cần phải xuống thăm, chào chị Tám và cô chú trước khi lên đường trở thành Vịt kiều trong tương lai. Chính xác và cóc cần nói dóc - đi đâu cũng được, miễn là ra khỏi cái thành phố bụi bậm, khói xe là cả ba đều vui, nhất là mình có lý do chính đáng.

Sau chuyến đi phượt Đà-Nẵng - Tam Kỳ - Hội An, thì chuyến đi này coi như đã quen thuộc, không còn sợ màn "ông mê", vì ở miền Tây thì chả thiếu gì những trạm cà phê Võng để dừng chân, ghé vào uống một trái dừa rồi nằm võng đánh đu nhìn xe cộ đi lại; có khi còn đánh được một giấc ngủ, một chiêm bao ngắn ngủi để sau đó lại đội cái nồi cơm điện, đeo khẩu trang để tiếp tục con đường - từ Sàigòn xuống Mỹ Tho chỉ hơn 70 km.

Từ con đường Võ Văn Kiệt ra đến đoạn đường Nguyễn Văn Linh thì thoải mái, sạch sẽ và an toàn hơn xưa rất nhiều - vì có làn đường riêng cho xe gắn máy, xe ô tô và vận tải thì phải đi con đường riêng cho họ, khi vào Quốc Lộ 1 xuôi Nam thì xe tải, xe chở hành khách loại lớn hầu hết phải dùng con đường cao tốc, vì đường mới, êm và nhanh hơn; không bị kẹt xe như con đường cũ - nay gọi là QL1A - đi về hướng Mỹ Tho, Bến Tre chỉ dành riêng cho xe gắn máy và xe hơi nhỏ. Tuy vậy, con đuờng cũ đã lâu không được chính phủ ngó ngàng đến cho nên đã bắt đầu xuống cấp; nhất là những khoảng đường tráng nhựa mà vì tính toán không kỹ lưỡng, để nhựa chẩy theo sức nóng của tháng 3, tháng 4 - rồi khi nó khô lại khiến con đường trở thành gập ghềnh, xe chạy nhanh dễ bị long lên như con ngựa sắt nổi cơn điên; rồi cộng thêm những xe chở cát & xi măng đi ngang để lại bụi bậm mờ mịt.

Sau khi lái xe hơn tiếng một đồng hồ, mà nếu đi xe hơi đóng kín cửa và mở máy lạnh thì chả nhằm nhò gì, nhưng dưới cái nắng của miền nam và bụi đường, tôi ra hiệu cho Linh tấp vào một quán Võng bên đường, nghỉ ngơi chốc lát rồi đi tiếp.

Về đầu trang


New York Kỷ Niệm

Trần Văn Sanh

Hôm nọ đọc lá thư của Nhị-Anh, tóm tắt kể chuyện đưa cô con gái trở lại New York bằng chuyến xe buýt chỉ mất khoảng 4 tiếng từ tiểu bang Virgina, và vé xe chỉ tốn $25, thật tiện lợi và khỏe ru, chả sợ chuyện lạc đường, lái xe mỏi mắt, kẹt xe.... Chỉ có thế mà làm tôi bỗng nhớ lại cách đây gần 39 năm về trước, hai vợ chồng tôi cũng đã là một chuyến viễn du bằng xe buýt - hãng Greyhound - đi từ New York về lại cái thành phố nhỏ bé, quê mùa và vắng người của Salt Lake city, tiểu bang Utah. Chuyến đi đó mỗi vé hình như tốn khoảng $70, và mất cả hơn bốn ngày trời và ba đêm dài, vì coi như đã băng qua cả chiều ngang của nước Mỹ.

Sau mùa hè năm 1975, một nửa gia đình tôi lục đục vali, khăn gói từ cái làng nhỏ bé tên Magna - nằm cách thành phố Salt Lake khoảng hơn 35 dặm, bay về New York để đoàn tụ với một nửa gia đình đã đến đó trước để tìm công ăn việc làm và chỗ trú ngụ cho cả nhà - lúc bấy giờ có khoảng 10 người. Thành phố nơi chúng tôi đến thực sự tên Flushing, NY - cách xa Manhatan chỉ một con sông và tôi thường đi tầu điện ngầm để lên phố. Trước ngày lên máy bay, tôi tò mò muốn chứng kiến tận mắt cái nguy nga, tráng lệ và văn minh của thành phố NY nó vĩ đại đến cỡ nào, nhưng sau khi ở NY chừng hơn 3 tuần lễ, tôi biết mình không tài nào có thể chôn chân ở một nơi tù túng, ngộp thở mà cuộc sống hàng ngày đã khiến tôi tự ví mình như một con chuột cống biết đi, sống âm thầm ngày hai buổi trong thành phố.

Khoảng thời gian đó đã vào cuối mùa thu, cái lạnh không làm tôi ngán ngẫm, nhưng mỗi sáng phải dậy sớm lúc trời còn nhá nhem tối, đi bộ ra đầu đường đứng đón chuyến xe buýt chở tôi đến trạm tầu điện ngầm. Đến nơi tôi chui xuống con đường hầm, bỏ đồng tiền kẽm để đi qua cổng sắt xoay tròn rồi vội vã bước vào con tầu đã đông chật người. Nửa tiếng đồng hồ sau đến trạm ngừng, tôi leo lên khỏi con đường hầm dưới ánh đèn trắng toát, lạnh lẽo và đi bộ băng ngang qua hai, ba con đường để đến sở. Buổi trưa không có đủ thời giờ để được ra ngoài đi dạo; tôi chỉ kịp ăn trưa tại chỗ rồi nghỉ ngơi dăm ba phút rồi trở lại làm việc.

NY City 09/1975 Tháng mười chưa cười đã tối, tan sở vào khoảng gần 6 giờ chiều thì bên ngoài trời đã tối mịt.

Tôi đi ngược lại con đường mà mình đã đi ban sáng - chui xuống đường hầm đón chuyến tầu điện, đến nơi leo lên khỏi lỗ rồi chạy vội đón chuyến xe buýt trở về nhà; tắm rửa và ăn uống qua loa xong leo lên giường chờ ngày mai tiếp diễn lại một điệp khúc. Giống như một loài chuột cống - ít khi được thấy ánh nắng mặt trời - không hơn không kém, tôi cho rằng như thế. Sau hơn hai tháng, tôi quyết định đi làm thêm một tháng nữa rồi mua hai vé xe buýt để hai vợ chồng tôi quay trở về thành phố Salt Lake mà ban đầu thấy sao mà đìu hiu, vắng vẻ quá; nhưng nay coi như đã "biết hết" thế nào là cái xa hoa, tráng lệ của thành phố New York, tôi biết mình không tài nào có thể lập gia đình rồi sinh sống mãi ở đây. Phải thành thực mà nói, về phương diện vật chất thì tôi không ưa hay ghét gì NY, nhưng về phương diện tâm linh - đối với tôi NY đã (và vẫn còn) là hiện thân của một xã hội văn-minh nhưng mất trí có lẽ trước cả khi tôi đã đặt bước chân đầu tiên đến.

SF- CA 11/1975 Người ta - nhất là du khách - khi đã đến New York thì chém chết cũng phải một lần mua vé đi tua thăm bức tượng Nữ Thần Tự Do, để xem cái tác phẩm điêu khắc của Frédéric Auguste Bartholdi, một điêu khắc gia người Pháp thiết kế, và nước Pháp đã dùng tặng cho nước Mỹ năm 1886. Tôi ở đó coi như hơn ba tháng mà vẫn chả chút hứng thú hay tò mò muốn đi xem nơi thắng cảnh, di tích nổi tiếng không những riêng của New York mà còn cả nước Mỹ. Ngay cả đến ngày hôm nay, đến giây phút này nếu ai mua vé mời tôi đi thăm NY, bao cả chuyến ghé tượng Nữ Thần Tự Do, có lẽ tôi cũng chả thiết đi. Không nói riêng gì tượng Nữ Thần Tự Do, ngay đến những năm còn ở California, khi nhà ở bên khu Berkely chỉ cách cây cầu treo nổi tiếng thế giới là cầu Golden Gate có hơn 15 dậm, thế mà tôi cũng chả một lần ghé mắt xem mặt ngang mũi dọc của cây cầu ai một lần đi ngang cũng phải trầm trồ khen ngợi. Thật ra, có thiếu gì những tấm post card - bưu thiếp - truyền hình, phim ảnh... đã cho tôi thấy cây cầu nổi tiếng đó đẹp và hùng vĩ như thế nào! tôi nghĩ nếu có dịp ngang qua thì cũng ghé chơi, chả tội vạ gì phải bon chen, mất thì giờ chen lấn nhau để đến đó nhìn lên, nhìn xuống rồi trầm trồ lập lại những câu đã bao người từng khen, từng nói. Cả nhà ai cũng bảo tôi thuộc loại người "weird", kỳ dị và gàn nhất thế kỷ. Cũng chả sao. Sau này khi họ hàng, bà con, bạn bè có dịp đi du lịch khắp nơi trên thế giới - nhất là những người từng đi Âu Châu, đã ghé thăm nào là kinh đô Ba-Lê, Luân Đôn, Venice, Luxembourg...và có cả một bộ phim nói về 1001 chốn phải một lần ghé đến trước khi lìa cõi trần ai, nhưng chẳng hiểu sao, tôi vẫn không chút gì gọi là hứng thú cho lắm. Tuy nhiên, nếu ai đó gửi cho tôi một tấm hình ảnh của một thị trấn nhỏ bé nào đó trên quê huơng Việt, lòng tôi lại nao nao, chùng xuống rồi nghĩ đến những chuyến xe đò, xe lửa, những bến tầu ghe thuyền lên xuống đã và sẽ đưa tôi đi thăm lại những xóm làng, những mảnh đời còn cơ cực nghèo khó.

Nghĩ lại, tôi nhớ những chuyến xe đò hãng Minh-Trung hay Thống Nhất ngày xưa đã từng đưa tôi lên xuống Đà Lạt. Mặc đù tuy ngồi nhắm mắt ngủ, nhưng sau khi xe ra khỏi thị xã Biên-Hòa - nơi khoảng quốc lộ được sư đoàn Công Binh 101 của Hoa Kỳ đổ nền, tráng nhựa cho nên đi rất êm; đến khoảng đường gồ ghề, lỗi lõm xe chạy chậm và lắc qua, lắc lại - tôi vẫn biết là mình đang ở địa phận Long Thành hay Long Khánh. Đến đoạn xe ỳ ạch chậm rãi như bò lên dốc, tôi biết rằng mình đang ở đoạn đèo Chuối; đến Bảo Lộc thì càng dễ biết hơn chỉ vì cái hơi lạnh và hương vị trà trong không khí lùa vào lồng ngực, vào thính giác.

Ở Mỹ này, nếu bịt mắt và bỏ tôi vào bên trong bất cứ một tiệm McDonald nào rồi mở khăn che mặt, hay cho đứng ở một góc đường nào đó - có lẽ thật khó mà đoán biết tôi đang ở đâu (ngoại trừ nhìn bảng số xe đi ngang qua).

Chuyến xe buýt đi xuyên bao nhiêu tiểu bang từ NY trở về Salt Lake city năm xưa đã hé mở cho tôi thấy phần nào, thế nào là nước Hoa-Kỳ, thế nào là văn-hóa, lối sống của người Mỹ. Khi xe buýt đến những trạm của hãng Greyhound dọc đường để đổ khách, đón khách hay đổi chuyến xe - ngay cả lúc xe tạm dừng chân ghé vào nhà hàng nằm dọc bên quốc lộ cũng thế - ai nấy đều riêng biệt, lặng lẽ mang túi hành lý sách tay đi vào quán thầm lặng ăn uống, ít ai nói chuyện, chào hỏi với ai câu nào. Lúc ấy tôi đã liên tưởng lại những quang cảnh ồn ào, náo nhiệt gọi nhau ơi ới - không những chỉ tại bến xe đò của Việt Nam tôi đã từng đi qua, mà thỉnh thoảng dọc theo xa lộ liên tỉnh, khi thả khách xuống, đón klhách mới lên. Ngồi trong xe cho dù nhiều lúc theo thói quen, leo lên xe đò chập sau là tôi đã ngủ gà, ngủ gật - nhưng vẫn nghe hành khách cho dù xa lạ nhưng chỉ thoáng chốc là nói chuyện om xòm với nhau ỏm tỏi. Hôm nọ khi mẹ chồng và đứa con dâu ngồi nói chuyện, khi nó biết ngoài Việt Nam ra thì tôi chưa hề đưa vợ đi du lịch ở một nước nào khác - ngoại trừ ở Cam Bốt, nhưng đó chẳng đáng để kể - vì cũng chỉ là chuyện tào lao; thậm chí là vợ tôi còn được đi Hawaii chơi một tuần lễ với mấy chị em chồng, hay đi Canada chơi với gia đình người em, còn tôi thì chưa hề. Đứa con dâu cười bảo vợ tôi quá hiền, còn thằng con trai thì nói thời đại này kiếm một người đàn bà chiều chồng như má nó thật khó, hiếm. Thằng khỉ khô này không chịu nghĩ rằng tưởng như kiếm một người đàn ông có máu gàn như bố nó là dễ lắm!

DaLat 12/2012 Ai nói sao thì nói, vậy mà tôi lại chẳng thấy thiếu thốn hay thèm khát gì cả, chắc có lẽ tại cứ cách một, hai năm là tôi làm một chuyến trở về thăm quê nhà, làm ba cái chuyện tầm phào, tào lao vậy mà thấy vui. Thỉnh thoảng dở xem lại những tấm ảnh đời thường chụp khi còn ở Việt-Nam, tôi biểt nếu so sánh với những tấm hình chụp tôi đứng ngạo nghễ, le lói dưới chân tháp Eiffel, hay bên cầu Danube... chưa chắc nó sẽ đem lại cái kỷ niệm tràn đầy hạnh phúc trong lòng, vì đó chỉ là những chuyến đi chơi đốt tiền để mua vui dăm ba hôm và chẳng để lại chút gì sâu đậm, ít ra trong tâm hồn gàn bướng của tôi. Có lẽ kiếp trước tôi đã từng đi qua những chốn phồn hoa đô thị đó bao lần cho nên kiếp này tôi thấy dửng dưng, không màng - cho dù nếu có người sẵn sàng bao "trọn gói" du lịch từ A đến Z; bởi vì hiện tại và mai sau - nhất là nào ai biết thế nào là mai sau - thời gian ngày càng trở nên giới hạn, và cũng chính vì thế mà tôi đã chọn rũ áo từ quan sớm - để hy vọng mình còn làm được chút gì trước khi cái ngày “không thể” sẽ đến.

SVT

Về đầu trang


NGÀY RỜI XA PHỐ NÚI

Trần Văn Sanh



Sớm mai xa Đà Lạt
nghe lòng chút vấn vương
khói sương phủ mờ nhạt
xa vời thưở yêu thương...

Trong lúc chờ chiếc xe trung chuyển của hãng xe Cà Phê Sinh đến đón, tôi đi bộ ra đầu ngõ mua gói xôi ăn dằn bụng trước khi lên đường. Từ xa, thấy bốn đứa con gái - một nhóm bạn thân - đang nắm tay nhau tíu tít, vừa đi vừa kể chuyện huyên thuyên. Khi thấy tôi với chiếc máy ảnh chuẩn bị chụp cảnh đời thường, mấy đứa chắc mắc cở, buông tay nhau và bước vội qua mặt. Dù vậy, tôi cũng ghi lại cái hình ảnh thật êm đềm, dễ thương ấy.

Vì có lẽ, cách đây cũng gần nửa thế kỷ, nhiều "Lão Bà Bà" của LY74 hẳn cũng đã sống qua cái giai đoạn thần tiên, tay trong tay hoặc cặp kè đi bộ và trò chuyện cùng nhau với một tâm hồn ngây thơ, trong trắng và mang nhiều mộng ước mầu hồng. Nay thì mỗi người một hoàn cảnh, mà không những riêng mình, nhiều bậc tu hành đều đã nghiệm thấy, ngày chào đời chẳng có đứa bé nào mà không khóc; chẳng biết có phải khóc vì biết sớm muộn và nhiều ít gì, đời vốn nhiều trầm luân, chông gai phải trải qua. Qua ống kính, trước khi bấm nút chụp hình, tôi thầm nghĩ đến lời cầu chúc :

chúc cho cuộc đời mấy cháu được bình an; tình bạn mãi được bền vững để mai sau, lúc cuối đời còn có nhau ở bên cạnh khi người thân đã lìa mình, ra đi vĩnh viễn. Năm xưa, cứ mỗi lần rời Đà-Lạt để về Sàigòn, khi xe gần đến Biên Hòa và với cái nóng bức ngột ngạt khiến tôi chỉ muốn xe quay đầu trở lại Đà- Lạt, cho dù vẫn biết rằng rồi vài hôm sau mình cũng sẽ trở về với vùng đồi núi.

Chuyến đi lần này đã mang lại cái ký ức nôn nao của thưỏ trước, vừa xuống hết đèo Prenn là tôi đã thấy nhớ Đà Lạt, nhưng tôi biết mình không thể, vì còn biết bao nhiêu chuyện khác để làm. Hẹn gặp lại Đà- Lạt sau đôi, ba tháng, tôi hy vọng sẽ là thế, vì vẫn còn những điều cần phải làm trước khi tôi quay trở về Mỹ. Trên đường đi, tôi lôi tờ báo cũ ra xem, cố ý mang theo chỉ vì những bản tin nói về thời sự quốc tế, xem để biết báo chí Việt-Nam có am tường về bao diễn biến đang xẩy ra trên chiến trường kinh-tế nói chung và chiến tranh về tiền tệ nói riêng. Dĩ nhiên, những bài báo này đã được trích dịch lại từ những nguồn tin của nước ngoài mà tôi đã biết từ trước. Điều tôi muốn rõ là xem người đăng tự mình có tạo thêm chút cảm nghĩ, phân tách riêng tư gì về những vấn đề này và sẽ ảnh hưởng ra sao với Việt-Nam. Tôi hơi thất vọng vì bài báo - như đã nói - chỉ lược dịch lại từ xuất sứ, mà không bổ túc thêm chút gì cho người đọc. Y như chỉ là một bản tin - giống như xe cán chó, chó cắn người - chả ăn nhậu gì đến biết bao người dân Việt, mặc dù ngay sau khi TQ phá giá đồng tiền của họ lần thứ nhì, tiền VN cũng đã được phá giá - đang từ 21,7xx cho 1 USD, được tăng lên thành 22,1xx - một hình thức hạ giá đồng tiền của mình để gia tăng mức xuất cảng, nhưng với hiện tình kinh tế thế giới nói chung và Hoa Kỳ nói riêng, đâu đâu cũng đang trên đà thoái hóa; bởi thế cho nên người ta gọi đây là cuộc chạy đua tiền tệ xuống đáy vực (a race to the bottom).

Bản tin về chuyện bom nổ ở Thiên Tân - Trung Quốc cũng tương tự như thế, không biết rằng sự kiện này có liên quan, dính dáng đến vụ TQ cho phá giá đồng Yuan của họ liên tiếp trong vòng hơn 2 tuần lễ, một hành động coi như sự tuyên chiến ngầm giữa TQ và Hoa-Kỳ - trên phương diện chiến tranh tiền tệ - mà sau khi phá giá lần thứ nhất, thị trường chứng khoán của TQ bỗng dưng bị mất đi 30% , vài ngày hôm sau thị trường chứng khoán của Mỹ bị ngưng hoạt động 4 tiếng đồng hồ, một chuyện "lạ" chưa từng bị xẩy ra. Đồng thời trong cùng một ngày. Hãng Delta Airline bị hắc tặc làm cả trăm chuyến bay bị nằm ụ, không thể cất cánh. Sau khi TQ phá giá lần thứ hai, thì có vụ nổ lớn ở Thiên-Tân. Kế tiếp là đài kiểm soát không phận ở Hoa Thịnh Đốn (DC) bị hắc tặc tấn công lần nữa. Chắn chắn sẽ còn những màn hành động trả đũa gây cấn trong những tuần lễ sắp tới. Chẳng hạn như ngay sau khi Thái-Lan theo bước chân của Trung Quốc, họ phá giá bằng cách tăng tỷ xuất đồng Baht với US Đô La, hai hôm sau thì vụ nổ bom ở Bangkok làm hơn 80 người chết. Những tháng còn lại của năm 2015 sẽ có nhiều chuyện gì lạ, nhưng thôi - nói ra sợ thiên hạ đâm dễ nhàm chán.... Oh ! What Tờ Heo ?

Về đầu trang

NGỘ ÁI NỊ

Trần Văn Sanh

Tôi thua bà chị cả của tôi gần đúng một con giáp, mãi đến bốn năm sau mẹ tôi mới lần lượt có thêm mấy đứa nữa. Thành thử hồi nhỏ trong thời gian đầu chỉ hai chị em, chúng tôi chơi rất thân với nhau.

Vì chị tôi ra đời sanh thiếu tháng cho nên người ốm yếu, nhỏ con, tôi nhờ ra sau, mẹ tôi sẵn có kinhnghiệm với đứa trước cho nên biết cách nuôi nấng hơn một chút, thêm vào đó tôi lại là thằng tham ăn, háu đói, bú sữa mẹ đến năm gần ba tuổi mới chịu ngưng cho nên tôi cao ngồng hơn bà chị. Trong cư-xá chỗ tôi ở, vì tỉ số con trai đồng trang lứa lại ít hơn con gái, cho nên tôi thường hay la cà, tham dự những màn nhẩy dây, nhẩy cò cò chơi chung với đám bạn gái của bà chị. Thoạt đầu, tôi chỉ là tên “gạc đờ co”, kè kè đi theo bảo vệ. Có lẽ thấy tôi hiền, “mặt hoa da trắng” lại hay cười mỉm chi (để che dấu cái răng sún phía trước) như con gái cho nên mấy cô bạn của bà chị thấy vậy dần dần rủ vào nhập bọn. Một nhỏ bạn của bà chị có lần buột miệng bảo là tôi hao hao giống nữ tài tử Lăng-Ba đóng giả trai trong phim Lương Sơn Bá – Chúc Anh-Đài. Tám, chín tuổi mà nghe nói mình giống minh-tinh tài tử điện-ảnh là trong lòng tôi thầm thấy khoái, sướng rên mé đìu hiu. Nghĩ mình có lẽ ngon lắm, đẹp trai lắm. Từ đó tôi không dám cười tô hô, ngoác miệng ra như trước, nhất là để che hàm răng sún của mình. Trong nhóm bạn gái của chị tôi, có một đứa là người Việt gốc Tầu, nhỏ nhất đám có mái tóc dài hay cột kiểu bím đuôi ngựa. Dáng gầy nhưng có khuôn mặt tròn trĩnh với hai gò má phúng phính lúm đồng tiền và đôi mắt tròn xoe, đen láy. Tên con nhỏ là Cẩm-Linh. Đáng lẽ nó không được nhập bọn vì nó mới bẩy tuổi, còn quá “con nít”, chưa biết chơi trò “người lớn” như nấu ăn, bán hàng chẳng hạn. Nhưng vì gia đình nó có tiệm chạp-phô, bán đủ thứ đồ tạp hoá, thức ăn, đồ dùng lỉnh kỉnh trong nhà cho nên đám bạn của bà chị – sau khi “họp mật” – đã chấp thuận cho con nhỏ vào “đảng” với điều kiện là nó phải về nhà “mua không trả tiền” những món gia-vị mà cả bọn tính nấu nướng, bán hàng bữa đó. Còn tôi dĩ nhiên những lúc ấy trở thành tên tà lọt, “được” sai chạy tứ tung, về nhà “thuỗm” than củi, gạo đường, mắm, muối, v.v… cho mấy đấng kẹp tóc trổ tài nội trợ, nấu nướng. Trong những nhiệm vụ “anh hùng, cao cả” ấy, tôi thường theo hộ tống con nhỏ CẩmLinh về nhà nó để “lãnh hàng” rồi ba chân, bốn cẳng phóng như bay về “mật khu” trước khi gia đình nó phát giác những hành vi đen tối “tẩu hàng” của tôi và nó. Không biết Cẩm-Linh vì thích được nói chuyện với tôi, hay muốn trả công cho cái việc chuyển hàng “lậu” đó, thỉnh thoảng nó thường hay dúi cho tôi gói ô-mai người ta hay dùng ăn cho ngọt miệng sau khi uống chén thuốc bắc đắng nghét.

Quen rồi tôi mới biết Cẩm-Linh là con một trong gia đình, học ở trường tư-thục của người Tầu gần cạnh trường công Nguyễn Thái Học của hai chị em tôi. Ba của Cẩm-Linh ngày nào cũng chở nó đi học bằng chiếc xe đạp cũ kỹ. Người Tầu họ rất căn cơ, cần kiệm và không chú trọng đến bề ngoài. Tôi nghĩ gia đình con nhỏ rất khá giả dư sức sắm chiếc xe gắn máy mới toanh, nhưng có lẽ họ sợ hàng xóm ganh ghét hay sao, tôi thấy họ ít chưng diện xa-hoa. Mỗi lần ba nó đạp xe chở đi ngang qua mặt hai chị em tôi đang đi bộ, nó thường hay dơ tay vẫy vẫy chào. Cái nụ cười trên đôi môi nhỏ và má lúm đồng tiền của Cẩm-Linh tôi nhìn thấy nó ngồ ngộ một cách khó diễn tả. Có lẽ tại chơi chung với đám con gái nên tôi đâm ra để ý đến phái nữ “hơi” sớm, đã biết chải chuốt cái “sắc đẹp”, lo cho cái bộ vó của mình một cách sớm hơn con trai cùng tuổi. Năm lên mười, tôi không còn la cà theo nhóm kẹp tóc nữa mà hùa chơi, theo gia nhập vào bọn con trai bên cư-xá kế cạnh. Phần thì tôi bắt đầu thấy có một cái gì “kỳ kỳ” khi chơi chung, vô tình nắm tay con gái trong lúc chơi trò bịt mắt bắt dê, phần thì thấy trò chơi của con gái quá dễ ợt, hết còn hào hứng. Chẳng hạn như chơi cò cò, mấy bạn của bà chị dùng miếng gạch ngói thẩy vào ô để nhẩy. Miếng gạch ngói thẩy lên sàn si-măng thường hay bể hoặc tưng rớt sai chỗ, văng ra ngoài ô khác. Tôi ma giáo hơn, lấy vỏ chuối gấp lại làm đôi, muốn thẩy đâu dính đó, xí hết nhiều ô của mấy đấng kẹp tóc. Thậm chí bà chị cả của tôi sau này cũng muốn tôi ra rìa. Cơm hay chè mấy bà nấu cũng vậy. Khét lẹt hay cháy đen như than. Luôn luôn tôi là người bị đem ra để thử trước mấy món ăn ma chê quỷ hờn của mấy thị mẹt. Nhưng tới màn rửa chén, dọn dẹp là tôi kiếm cớ dông liền lập tức. Tôi thấy đi chơi chung với con trai leo cổng chùa hái trộm mận, vào sân nhà thờ hái cắp trái nhãn hay trái trứng cá, chơi tạt lon, dích hình, chia phe làm cao-bồi, mọi da đỏ bắn súng, bắn tên … coi bộ vui hơn nhiều. Thế là thời gian sau tôi quên bén đi mất con nhỏ Cẩm-Linh với đôi má phúng phính hồng dễ thương đó.

Cho đến một ngày kia, như mọi bữa, tình cờ đi học hai chị em tôi gặp lại Cẩm-Linh. Con nhỏ không biết sao hôm đó ba nó không đưa đón, đi bộ đến trường gặp phải một bọn ba trợn, hai ba đứa côn đồ theo kéo cái đuôi tóc, chọc ghẹo hát câu “Các chú ba-tầu thằng nào cũng như thằng nấy, thằng nào không “giấy” thì cho nó đi về tầu …”. Tôi thấy nó đứng một mình khóc thút thít. Sẵn máu anh hùng rơm, ỷ biết vài đường quyền võ Bình-Định bố dậy, tôi đưa cặp táp cho bà chị, phóng đến can thiệp. Đứng bên cạnh cao hơn Cẩm-Linh gần một cái đầu, tôi quắc mắc bảo mấy thằng mắc dịch:

- Ê mấy người ăn hiếp con gái mà không biết mắc cở hả?

- Rồi sao! có tức hông hở thằng “gà mái”?

Nghe chữ “gà mái” làm tôi bỗng nóng mặt. Chả là vì trong bọn nó có một thằng gần nhà biết tôi năm ngoái hay chơi với con gái, thỉnh thoảng đi ngang nhà vẫn trêu chọc. Giờ thấy tôi làm kỳ đà cản mũi cho cái trò chơi mất dậy của chúng, nó buông câu tính làm cho tôi mất mặt. Tôi cố gắng giữ bình tĩnh, không muốn lộ cái giận run người ở trong lòng:

- Thằng nào gà mái? có giỏi đụng tới tao, ăn hiếp con gái nhỏ hơn mày hay ho mẹ gì!

Một thằng có lẽ là đầu xỏ trong bọn, thấy tướng tá tưởng tôi gầy còm, “mặt hiền như con gái”, chẳng nói chẳng rằng, nó xông đến dơ tay muốn thoi tôi một cú vào mặt. Tôi vội vàng đẩy Cẩm-Linh sang một bên, né cú đấm của nó và đồng thời bước tới luồn người xuống phía cánh tay của nó, ba ngón tay phải tôi xỉa mạnh ngay cái huyệt ở dưới nách. Lối chuyển mình một cách chớp nhoáng và cú đánh nhẹ của tôi cũng đủ làm thằng cô hồn các đảng khụm người, tê điếng một phần bên trái của nó. Thấy tôi có vẻ biết võ và thằng đàn anh của mình thoáng một cái đã bị quỳ gục xuống trong tích tắc, cả bọn bèn hùa nhau bỏ chạy. Hai chị em tôi đưa Cẩm-Linh đến gần trường nó rồi mới băng qua đường đến trường mình. Tối hôm đó, ba của Cẩm-Linh dẫn nó qua nhà tôi ngỏ lời cám ơn. Con nhỏ chỉ nhìn tôi cười mỉm chi và lí nhí nói vài câu theo lời ba nó bảo. Trước khi về nó dúi cho tôi hai gói ô-mai kèm theo câu “Cám ơn Bình nhen!” nói nho nhỏ như sợ mọi người nghe thấy. Tự dưng chưa ăn mà tôi đã tưởng tượng, thấy vị cam thảo ngòn ngọt ở cuống họng. Lần này, tôi đã không bóc ăn hai gói ô mai đó, chỉ đặt nó trên bàn học để dành mà ngắm và thỉnh thoảng nghĩ đến cái nụ cười dễ thương có cái răng khểnh của con nhỏ rồi thấy lòng nao nao. Thỉnh thoảng hôm nào ba của Cẩm-Linh đi xa mua hàng hay xe đạp bị xẹp bánh không thể chở nó đi học, Cẩm-Linh thường hay chờ cho hai chị em tôi đi ngang nhà rồi đi ké theo cùng. Từ ngày ra tay “anh hùng hào hiệp” tôi thấy Cẩm-Linh lại càng bé bỏng, nhỏ nhắn hơn trước mặc dù bây giờ nó cũng bắt đầu lớn xộn cao gần bằng tôi. Con gái có khác. Lớn trước con trai một cái ào rồi thôi. Mấy thằng bạn cùng tuổi sau này gặp Cẩm-Linh đứa nào cũng đâm ra ngờ nghệch, ngớ ngẩn. Có lẽ tại tôi quen với nó cả hai, ba năm chơi chung hàng ngày nên không thấy điểm gì lạ. Lúc thằng bạn thân của tôi khen Cẩm-Linh có nét giống nữ tài Miêu-Khả-Tú, đóng chung với Bruce Lee trong phim Đường Sơn Đại Huynh, tôi mới để ý và công nhận rằng nó nói đúng. Một lần chị tôi bị bịnh ở nhà, tôi sánh vai với CẩmLinh đi học đến trường. Trên đường, tôi hỏi Cẩm-Linh có thể chỉ cho tôi học vài câu tiếng Tầu. Con nhỏ cười khoe cái răng khểnh:

- Bình muốn học tiếng Tầu làm gì?

- Để biết đâu sau này Bình đi Hồng-Kông chơi, coi sách báo nói về minh-tinh, tài tử Tầu… - Ý da, coi bộ Bình mê phim kiếm hiệp Tầu quá hén!

- Cũng vầy vậy thôi, mà muôïi có muốn chỉ tiếng Tầu hay không hở?

- Ừ, chỉ thì chỉ … Bình muốn học chữ gì nào?

Nghe hỏi tôi đâm ra lúng túng, lọng cọng, nghĩ mãi mới rặn ra được một câu:

- Tị dụ như Bình muốn hỏi “Chào cô mạnh giỏi” thì nói làm sao?

- Nị hầu mạ - Cái gì? Cẩm-Linh nói cái gì nghe ngộ ghê ta!

- “Nị hầu mạ” nghĩa là “chào mạnh giỏi” - “Nị hầu mạ”? Tôi lập lại.

- Ừ! Bình nói đúng giọng đó. Con nhỏ cười mỉm chị - Thế còn câu “tao đánh mày bây giờ”?

- “Ngộ tả nị xẩy ah”. Ý da, bộ Bình tính kiếm chuyện, đánh lộn với ai sao mà học câu đó?

- Không, tính hỏi chơi thôi. Còn câu “Tao thích mày”?

Tôi bấm bụng, hỏi một cách bạo gan hơn một chút.

- “Ngộ ái Nị “. Cái này dễ òm! Cẩm-Linh tưởng ai cũng biết chớ … Tôi nhìn nó cười cười:

- À! ngộ ái nị hả? dễ quá hén… ngộ ái nị …tôi thích em… ngộ ái nị … Tôi thỉnh thoảng lập đi lập lại câu nói đó trên con đường đến trường làm như muốn thuộc lòng cái bài học vỡ lòng của mối tình đầu chập chững mới lớn. Không biết con nhỏ đã nghĩ gì, tôi thấy khi không nó im lặng, không nói mà đôi má bỗng đỏ ửng như hai trái đào trong mấy cuốn lịch Tết người ta hay treo, tặng quảng cáo cho không vào dịp Tết.

Thời gian sau, tôi gia nhập đoàn Hướng-Đạo rồi mải mê đi cắm trại, thi đua tháo vát và ham vui, thoả chí tang bồng với cái chân trời tự do, bao la không bị tù tùng quanh quẩn ở nhà, nơi cư-xá. Tôi quên khuấy mất Cẩm-Linh, chỉ mang máng đâu như nó thôi không còn theo học trường ở gần nhà nữa, mà đã vào nội-trú ở trường Regina Pacis của mấy bà soeur. Rồi năm mười bốn, mười lăm tuổi tôi thường cúp cua, bỏ học để tập tành ăn chơi kiểu hippy cùng với ông anh họ. Mới đầu mẹ tôi còn dụ khị, hễ mỗi tháng đứng từ hạng nhất tới hạng năm, tôi sẽ được thưởng năm trăm đồng. Một số tiền khá lớn trong khi tiền ăn sáng, tiền quà của tôi lúc đó chỉ được có hai chục một ngày. Tháng nào cần tiền thì tôi đứng từ hạng nhất tới hạng năm, không thì tôi tụt xuống hạng chót, đội sổ. Bố đi làm, mẹ đi buôn cả ngày, tôi như con chó hoang, tung hoành ăn chơi, nhẩy đầm khắp nơi. Thỉnh thoảng chủ nhật đi lễ nhà thờ của trường Regina Pacis ở đường Tú-Xương, tôi gặp Cẩm-Linh trong bộ nữ-sinh áo đầm đồng phục ngồi chung với đám bạn học nội-trú có hai bà sơ ngồi cạnh như bà giám-thị, canh chừng. Tôi bỗng nhớ lại mới ngày nào sau khi được rước lễ lần đầu, trên đường về gặp con nhỏ có khuôn mặt tròn trĩnh, hai má hồng hồng dễ thương, tôi chọc ghẹo thò tay béo má Cẩm-Linh làm nó - không biết vì giận ghét hay xấu hổ - bỏ chạy, trốn biệt. Mãi hơn hai tháng sau nó mới thò mặt ra chơi chung với nhóm bạn gái của bà chị tôi. Bây giờ lớn lên gầy bớt đi, khuôn mặt trở thành hình trái soan với cái cằm nhọn. Vẫn mái tóc dài nhưng không còn cột bím đuôi ngựa nữa. Tôi thấy Cẩm-Linh đẹp hơn Miêu-Khả-Tú nhiều. Một cái đẹp vừa liêu-trai, vừa thuỳ-mị, đáng kính. Nhưng lúc đó cảm tưởng như mình kẻ ăn chơi, hoang đàng nhiều tội lỗi, tôi chỉ dám ném cái liếc trộm nhìn về phía nàng rồi vội vàng cúi đầu đọc kinh, tan lễ ra về mà không dám dừng chân lại hỏi han đôi câu.

Sau này, năm tôi mười bẩy tuổi. Chán chường với những cuộc ăn chơi đua đòi, nhậu nhẹt, nhẩy đầm thâu đêm suốt sáng với bọn nhà giầu con ông, cháu cha. Tôi bỏ nhà đi giang hồ, muốn tìm một định nghĩa, một phương hướng nào đó cho cuộc đời của mình. Với những tháng ngày ngao du ấy, tôi thấy cuộc đời sao lắm đau thương, đầy phiền muộn. Cái chết nhiều khi đến một cách cũng chẳng ngờ. Trong đám bạn vào không quân, vài thằng đã bỏ mạng, trở về với gia đình trong áo quan phủ kín dưới lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ. Mới ngày nào còn nhậu nhẹt, chở nhau đi cua đào, tán gái. Giờ đã nằm dưới ba tấc đất. Thằng thì bị pháo kích chết trong tết Mậu-Thân đến nỗi mất xác, chỉ còn lại cái chân trên giường ngủ. Sống đó chết đó. Tất cả dường như chỉ là trò đùa, một vở tuồng bi kịch. Chỉ có hình ảnh của CẩmLinh, thỉnh thoảng vẫn còn phảng phất, hiện hữu trong tâm khảm, nhưng có lẽ vẫn còn cái mặc cảm về những năm ăn chơi truỵ lạc, tôi thấy mình không xứng đáng để tìm gặp lại người con gái, khơi dậy lại mối tình thơ ngây ban đầu. Một lần, trong buổi dạ tiệc đêm Giáng-Sinh ở biệt-thự của một người bạn gái, con của một ông đại-tá làm tỉnh-trưởng miền Trung, giữa lúc mọi người quay cuồng, chìm đám trong tiếng nhạc, đứng một mình trên sân thượng tránh cái khói thuốc ngột ngạt bên trong, tôi chợt nghĩ tại sao mình phải lệ thuộc vào người khác để tìm cái niềm vui trong thoảng chốc, và sau đó chỉ còn lại những khoảng trống, giọt đắng trong lòng. Tôi bỗng nẩy ra cái ý định thử đi tìm hiểu về đạo lý, về cuộc đời, tại sao có những khổ đau của loài người, đồng thời tôi cũng đã mỏi mệt, chán chường kiếp ăn chơi, hoang đàng bao năm nay. Thời gian ngắn sau, quen nhiều tu-sinh ở một vài chủng-viện đây đó, tôi tìm thấy một sự an bình, thanh thản – không còn những tư tưởng chán đời, yếm thế như trước. Tôi tưởng lầm có lẽ không chừng mình có số đi tu thật. Vậy đó mà chỉ hơn một năm – sau khi miền Nam buông súng đầu hàng năm 1975 – tôi gặp một người con gái cũng dịu hiền, cũng có cái nét giống CẩmLinh ngày xưa, có điều nàng thấp hơn Cẩm-Linh gần cả cái đầu, quen nhau khá lâu rồi tôi mới dám chọc ghẹo, gọi nàng là con “vịt xiêm”, “vịt đẹt của anh”. Chúng tôi làm đám cưới vội vã trước khi âm thầm, lẳng lặng dắt nhau xuống thuyền vượt biên hai năm sau. Nhờ trời thương cho nên vợ chồng tôi xuôi thuyền, thuận gió sang đến đảo Phi Luật Tân và được tị nạn sang Hoa-Kỳ. Vợ tôi không những có nét giống Cẩm-Linh mà tánh tình cũng gần như vậy. Hay dỗi hờn và dễ khóc mặc dù đôi lúc cũng đổ lì, hơi bướng ít nói. Chúng tôi thường tâm sự rằng sẽ có ngày nào đó về lại quê nhà, vợ chồng tôi sẽ đi tìm giúp những trẻ em mồ côi, xây cất trường học cho những đứa bé thiếu may mắn này. Thoáng chốc mà đã hai mươi năm trôi qua, con cái đã lớn, đứa đã ra đời và ở riêng, tự lập. Tôi tưởng ước vọng của hai vợ chồng đã gần kề, chỉ chờ đứa út ra trường đại-học là chúng tôi bắt tay vào làm cho cái mơ ước của mình thành sự thật. Nào ngờ cuộc đời nhiều nghịch cảnh, bất ngờ. Một hôm đi làm về, tôi thấy một phong thư để lại trên bàn ăn. Mở ra đọc được vài hàng, tôi bỗng choáng váng, sững sờ. Người vợ tôi hằng yêu thương, ôm ấp bao năm nay viết thư để lại, nói nàng cần có một “khoảng cách” sống riêng biệt để tự tìm hiểu về chính nàng, về những gì nàng mong muốn cho cái quảng đời còn lại. Hãy để cho nàng được tự do, bảo tôi yên tâm đừng tìm kiếm nàng trong một thời gian ngắn. Rồi khi nào hiểu thấu những khúc mắc trong lòng, nàng sẽ quay trở về và cho tôi biết. Hai tháng sau nàng trở về thật, nhưng nàng trở về với giấy tờ ly-dị đã soạn thảo sẵn chỉ cần tôi ký tên vào đó. Gặng hỏi nàng cũng không nói nhiều, đại khái chỉ nói rằng thấy tôi mỗi ngày một xa lạ, tình cảm của nàng đối với tôi hình như đã không còn.

Trong lúc tôi có những ước mơ quá “cao sang”, vẽ những mộng đẹp “thánh thiện” cho người khác mà không để ý nàng bắt đầu thích những chuyến du-lịch, đi chơi đây đó. Tôi cố giải thích rằng rồi cả hai cũng sẽ có những chuyến ngao du như thế, hoặc ngay bất cứ lúc nào nàng muốn. Nhưng hình như khi con tim của một người đã có những nhịp đập thay đổi, những ước vọng muốn ngã rẽ mới. Hoặc đã chán những nếp sống phẳng lặng, bình thường – như nàng bảo tôi không còn “lãng mạn”, “say mê” nàng như thửơ hai người còn yêu nhau. Tôi không phải biết nói làm sao. Những bài thơ tôi làm cho nàng, ngày xưa làm nàng rung động bao nhiêu, bây giờ nàng lại càng dửng dưng, không buồn đọc, đã vậy thỉnh thoảng lại ghen bóng gió với những nhân vật giả-tưởng trong truyện. Bên ngoài ai cũng nghĩ hai vợ chồng tôi thật đẹp đôi, hạnh phúc hiếm thấy. Thế rồi cũng không tránh được cái cao trào thoái hoái của xã-hội Mỹ. Sự đổ vỡ của vợ chồng tôi làm cho con số thống-kê của những gia đình ly dị đã sẵn cao nay lại nhẩy thêm một con số nữa. Ít lâu sau, tôi nghe nói nàng sang Úc cặp bồ lại với người bạn trai mà ngày xưa trước khi gặp tôi, đã mê mẩn thần phục và chiều chuộng nàng hơn ba năm trời. Khi gặp tôi, nàng bỗng thấy hắn đâm ra trẻ con, mặc dù tôi chỉ hơn hắn một, hai tuổi gì đó. Giá mà ngày xưa biết hai người đang quen nhau, tôi đã chẳng nhào vô tán tỉnh. Tánh tôi kỳ cục là không muốn phá vỡ hạnh phúc, làm người khác đau khổ, vậy mà đôi ba lần đi theo làm quân-sư “quạt mo” cho thằng bạn cách cua đào, bạn gái của nó lại “chịu đèn” tôi - kẻ ngang phè phè, chỉ muốn rong chơi làm thơ, tính chuyện tu hành.

Cũng đôi lúc nghĩ lại, tôi thấy mình vì thương người đâm ra vô tình làm vài việc “ác đức”. Chẳng hạn thấy trong lớp những cô gái xấu xí, nhiều người chê, không ai tán. Tôi làm thơ không ký tên để gởi tặng họ. Làm như có kẻ vô danh ái mộ những cô nàng kém may mắn. Hoặc đôi lần đi học thật sớm, tôi hái trộm những cành hoa cúc trắng, hay nụ hoa hồng mọc bên hiên nhà, sân nhà của người lạ, đem vào lớp và để trên ghế ngồi của những cô giá xấu xí này. Nhìn khuôn mặt họ hân hoan, sung sướng khi khám phá ra những cánh hoa, những bài thơ lãng mạn dấu dưới ngăn bàn học. Tôi thấy lúc ấy trong lòng mình thầm vui lây, chia sẻ cái sung sướng của họ. Khi đã chán cuộc sống của cái tỉnh lỵ nhỏ bé và rời bỏ để đi đến ở chỗ khác, sau tôi chợt hiểu rằng mình đã vô tình tạo ra và làm vỡ cái mộng tưởng của những cô gái nọ. Chắc có lẽ ai đó đã đau khổ vì cái hành động kém suy nghĩ về hậu quả, thiếu chiều sâu của tôi , nên có thể bây giờ bị vợ đòi ly-dị là cái giá phải trả cho những hành động vô ý thức của tôi ngày xưa.

Thời gian hơn một năm sau, tôi vẫn còn luyến tiếc, nhung nhớ người vợ cũ với bao nhiêu kỷ-niệm của những ngày chung sống bên nhau. Hình như ít cặp vợ chồng nào mà không có những cơn sóng gió lớn trong đời. Tôi nghĩ mãi, nhận ra rằng vợ chồng tôi chỉ có những chuyện hục hặc xẩy ra sau khi đã đưa gia đình nàng sang được Hoa-Kỳ đoàn tụ. Thời gian đầu, vì sau bao năm trời xa gia-đình, nàng chăm lo cho cha mẹ, anh chị em rất chu đáo, hết lòng. Tôi khuyên vợ nên cẩn thận, đừng quá phí sức, cũng nên để cho họ học hỏi một chút tự lập. Nàng tưởng lầm tôi ích kỷ, không muốn giúp đỡ gia-đình nàng. Về sau vợ tôi mới biết, sau bao năm gia đình nàng sống dưới một chế-độ hà khắc, ngu xuẩn chỉ biết dậy con người tánh vị kỷ, tham lam - không cách chi vợ tôi chu toàn, làm đủ cái gọi là “bổn phận đối với gia đình” mà cha mẹ, anh em của nàng đã lên án. Tôi biết trước nên không giận vợ tôi hoặc ngay chính cả gia đình bên vợ. Chỉ tội nghiệp vì họ đã không thấy những thảm cảnh sẽ xẩy ra sau này khi mỗi người ra ở riêng. Sau cú xốc vì chuyện gia đình của nàng. Sức khoẻ của vợ tôi yếu hẳn đi, ít còn những nụ cười hồn nhiên như ngày xưa. Ngay cả đến cái nhìn vô tư, thành thật về cuộc đời của nàng cũng bị thay đổi không ít. Từ ngày lấy nhau, tôi xốc vác hết tất cả mọi chuyện, không muốn để vợ phải đi làm, chỉ ở nhà nuôi con cho chúng nó nên người, tôi muốn chúng nó tránh cái bài học mà tôi đã trải qua thời niên thiếu. Trước ngày gia đình nàng qua Mỹ, vợ tôi rất dễ cười vì máu tiếu lâm, thích nghịch ngợm của tôi.

Có lẽ nhờ đó mà nàng trẻ lâu. Hơn ba mươi tuổi mà chưa có một người Mỹ nào đã đoán nàng trên hai mươi lăm, hăm sáu. Có người đến nỗi lầm tưởng vợ tôi còn là học trò đang ở bậc trung-học.

Giở đống hình ảnh cũ, nhìn lại những tấm hình kỷ-niệm tôi chụp cho vợ tôi ngày trước. Đôi lúc nhìn vài tấm hình, nàng gợi nhớ cho tôi cái phảng phất, nét dáng của một người con gái tuổi ô-mai, cột tóc đuôi ngựa thưở xa xưa. Để tìm quên nỗi buồn đang gặm nhấm trong tâm hồn, tôi thu xếp mọi công việc, dặn dò hai thằng con lớn – đứa đã ra trường có việc sống tự lập, đứa đang học năm thứ hai – chỉ cho chúng nó biết những sổ sách, giấy tờ nhà cửa, cần thiết xong đâu đó. Tôi gia nhập vào cơ-quan từ-thiện Habitat For Humanity của cựu tổng-thống Hoa-Kỳ Jimmy Carter, bay sang Phi-Luật-Tân theo đoàn thiệnnguyện đi vào những vùng làng mạc, hẻo lánh để xây cất những mái nhà lợp tôn, vách gỗ đơn sơ cho những gia đình nghèo khó. Thấy những đứa trẻ thơ gầy ốm, đói khát, bệnh tật hay những người già cả, yếu đuối không đủ manh áo che cái lạnh, cô đơn giữa nơi rừng thiêng, nước độc. Tôi thấy cái buồn ly dị, cô đơn của mình chưa thấm bằng những cái đau khổ của người khác. Thêm vào đó, xa cách cái khung cảnh xô bồ, một xã-hội chỉ biết chạy đua với vật chất và thời gian. Tôi thấy không gian như cô đọng chậm dần lại, tâm hồn tôi an định hơn đôi chút. Sau khi làm việc gần sáu tháng với cơ-quan Habitat For Humanity, tôi thu thập được thêm một mớ kiến thức mới như lối đào giếng và lọc nước, cách thức tổ chức một dự án lớn như thế. Sẵn có những dự tính trong đầu, tôi trở về Việt Nam, thăm lại quê hương sau hơn hai mươi năm xa cách. Ngày bước xuống phi-trường Tân-Sơn-Nhất, tôi nghe lòng nao nao – không biết trong lòng mình vui hay buồn. Ít hôm sau, tôi thấy lòng buồn nhiều hơn vui, nhìn những trẻ thơ lang thang xin ăn, ngủ vất vưởng bên vỉa hè, bụi bờ. Với cái ý định sẽ xây cất một cô-nhi-viện, một trường học như ký-túc-xá để thu nhặt những đứa trẻ vô gia đình, vô nghề nghiệp, đem về nuôi nấng dậy dỗ cho chúng nó nên người tốt trong xã-hội. Nghe nói ở Di-Linh, Bảo-Lộc có một dòng nữ-tu đang khởi đầu, bắt tay vào làm công việc đó. Tôi thu xếp hành trang, đón chiếc xe đò đến nơi để tìm hiểu, xem có thể giúp đỡ họ trong cái công tác đầy tình thương, bác ái này. Trên đường đi, tôi bâng khuân hồi tưởng lại những ngày tháng phiêu du, theo những chuyến xe đò hay dùng cái thẻ phóng-viên báo-chí của mình để quá giang đoàn công-voa của quân đội đi đây đi đó, lang bạt thăm viếng nhiều nơi trên quê hương.

Hai mươi năm sau từ bên kia nửa trái đất trở về, tôi vẫn còn nhớ – không thể nào quên được – từng tiếng động náo nhiệt hay những quãngg đường thanh vắng của quốc lộ từ Sàigòn lên Bảo-Lộc, Đàlạt.

Ngày xưa đi nhiều lần như cơm bữa, tôi có thể vừa ngủ gà ngủ gật trên chyến xe đò, nhưng vẫn biết xe đang đi đến đâu tuỳ theo tiếng động ở bên ngoài, độ dằn vì xe cán lên ổ gà và mùi hương thoang thoảng bay trong gió. Nhất là khi sắp đến Bảo-Lộc, mùi trà sen và cái khí hậu mát lạnh lùa vào làm tôi tỉnh ngủ hẳn.

Xuống xe đứng ở bên lề, tôi hỏi thăm quanh quất những người buôn bán về nơi chốn và đường đi đến chỗ tu-viện, làng cô-nhi đang xây cất. Họ bảo tốt nhất nên thuê một người lái xe ôm sẽ đưa tôi đến tận nơi, vì chỗ đó tuốt bên trong làng, gần ngoài bìa những đồn điền trồng vườn trà. Một người lái xe ôm vội vàng phóng đến khi thấy tôi ngoắc tay gọi. Ông ta trông có vẻ thật thà, lương thiện qua lối nói chuyện trả giá. Tôi cười thầm khi ông ta mừng rỡ lúc tôi bằng lòng với cái giá một cuốc xe mà tôi đoán biết, có lẽ trả hơi quá lố. Đối với tôi lúc đó năm đô-la chả thấm vào đâu, nhưng sẽ là một bữa cơm đầy đủ, thịnh soạn cho cả gia đình của ông ta bữa đó. Mà quả thật, tội cho chiếc xe gắn máy Honda già nua cũ kỹ, con đường làng đất đỏ, lỡm chởm những ổ gà, sình lầy sau trận mưa lớn tối hôm trước, chạy dài ngoằn ngoèo đến cả hơn chục cây số mới đến cổng của một trang trại treo bảng tên “Trại Thiện-Tâm”, nét sơn vẫn còn có vẻ mới, bên trong cổng vỏn vẹn ba căn nhà tranh lợp mái tôn, lụp xụp, nghèo nàn.

Tôi dặn người tài xế xe ôm chờ tôi ở cổng, rồi vác lên vai cái ba-lô và cái sách tay nhỏ bước vào một căn nhà trông rộng rãi, thoáng khí ở giữa sân. Bên trong, một người đàn bà trạc độ trên sáu mươi, trong bộ áo chùng thâm, đầu mang chiếc khăn nhà dòng, đeo sâu chuỗi thánh-giá trước ngực, bước ra tự giới thiệu và hỏi: - Tôi là soeur Lan, coi sóc trại ở đây, xin lỗi ông muốn kiếm ai?

- Thiên Chúa ở cùng soeur, tôi nghe nói ở đây có dòng nữ-tu Mến Thánh-Giá đang mở một trang trại cho các trẻ em mồ côi nên tôi muốn tìm hiểu để có thể góp tay, xin giúp đỡ làm được một điều gì đó.

Tôi chào soeur với một thói quen của người thường đi nhà thờ ở Mỹ và nhận thấy nét vui mừng, rạng rỡ lộ trên nét mặt hiền hoà nhưng khắc khổ của người đàn bà đã hy sinh trọn cuộc đời của mình cho một lý tưởng phụng sự cao cả. Bà soeur mời tôi ngồi xuống chiếc ghế đẩu làm bằng thân cây cổ thụ được cắt thành từng khúc, chà đánh giấy nhám trên mặt cho bóng để trở thành một cái ghế ngồi thực dụng, thật giản dị. Bà vừa loay hoay, bắt bếp lửa để đun một ấm nước pha trà, vừa ân cần kể chuyện về cái trang trại mới được khánh thành, khởi sự gần một năm nay. Tôi chợt nghĩ có lẽ câu chuyện sẽ dài cho nên xin phép tạm gián đoạn, bước ra ngoài trả tiền cước xe cho người tài xế, cho ông ta thêm vài ngàn đồng Việt để ăn trưa, dặn ông ta trở lại khoảng hai tiếng đồng hồ đón tôi rồi sẽ tính sau mọi chuyện. Trở lại với soeur, tôi ngồi xuống gợi chuyện dang dở lúc ban nẫy:

- Dạ, ngoài Soeur ra còn ai giúp soeur một tay hay không? Tôi thấy có lẽ còn nhiều công việc lắm phải không ạ?

- Có chứ thưa ông… à xin lỗi ông tên chi để gọi cho tiện.

- Chết thật, tôi quá vô ý, xin lỗi soeur, dạ tôi tên Bình.

- Không có chi ông Bình. Tôi còn có hai soeur nữa phụ giúp. Một đang ở ngoài nông trại dậy mấy đứa trẻ cách trồng tỉa, một soeur nữa ở Saigòn, đang mua sắm chút vật dụng và kiếm tìm hỏi thăm có đứa trẻ nào không có cha mẹ, thân quyến muốn theo về đây ở chung với chúng tôi. Ngày mốt soeur ấy trở lại.

Hiện tại trại đang có hơn mười hai cháu, tuổi từ ba, bốn cho đến mười một, …mười lăm. Chúng tôi cần thuốc men, quần áo cũ, ít dụng cụ học đường…. cái gì cũng thiếu thốn cả như ông đã thấy.

- Thế có ai giúp đỡ, như chính phủ chẳng hạn, đóng góp chút gì cho soeur, cho cái trang trại này không ạ ?

- Thưa ông, chúng tôi mới mở trang trại này gần được một năm nên chỉ có một số ít người biết đến và quyên tặng. Chính quyền cấp phát, cho chúng tôi được mảnh đất này đã là may mắn lắm rồi. Tôi chỉ mong, trông cậy vào tình thương của những người như ông đem đến cho mấy cháu.

Tôi bảo với soeur đó là cái mục đích trong chuyến đi này của tôi, và kể sơ qua những điều tôi đã dự định, muốn đem lại niềm an ủi cho những kẻ bất hạnh, thiếu may mắn. Nhìn những đứa trẻ xa xa đang tới lui, chăm chú làm việc ngoài vườn, tôi thầm nghĩ và so sánh chúng nó với những đứa con của tôi. Tưởng tượng, nếu ngày xưa vợ chồng tôi vẫn còn ở lại Việt Nam, vì lý do hoàn cảnh nào đó hai đứa con tôi phải lang thang đói khát, sống không biết nguồn gốc, tương lai của mình về đâu. Khoảng cách giữa hai hoàn cảnh thực hư – nghĩ ra thấy quá gần, quá mong manh. Như cái hạnh phúc vợ chồng của tôi, mới ngày nào đó mà nay đã là dĩ vãng, xa mờ. Sau khi hỏi han thêm về dăm ba công việc, dự tính sắp đến của trang trại, thấy người tái xế xe ôm trở lại đón, tôi kiếu từ người soeur già đầy từ tâm này, hẹn ngày mai sẽ trở lại sau khi tìm được một chỗ trọ, khách sạn nào đó ở ngoài phố. Trước khi rời, tôi không quên lôi ra trong cái ba-lô những túi kẹo bánh đem về từ Mỹ, đưa cho bà để chia cho những đứa trẻ. Đêm nằm trong căn phòng vắng dưới ánh đèn néon trắng lạnh, tôi suy tư thầm nghĩ đến thân phận nhỏ bé của con người, của chính tôi, có lúc muốn mình như một “loài sâu ngủ quên trong tóc chiều” của Trịnh Công Sơn, cuộn mình trong thiên-thu chờ một kiếp mai, và tôi thiếp đi hồn lạc vào quá khứ, chìm vào trong giấc mộng ngày còn tuổi thơ lúc nào tôi cũng chẳng hay.

Hôm sau thức dậy thật sớm, ghé xuống quán nhỏ bên đường ăn miếng bánh mì với cái trứng tráng và ly càfe đen đăïc sản của thị-xã Bảo-Lộc. Tôi chợt thấy kỷ-niệm của hơn hai mươi năm trước như sống dậy trong lòng. Đó là những buổi sáng la cà, ngồi nơi quán cốc ăn miếng xôi, khúc khoai mì, bắp luộc, hôm nào “xịn” có chút tiền thì dĩa trứng chiên với ổ bánh mì nóng hổi, uống ly càfe trong lúc chờ đợi chuyến xe đò đưa tôi đi về những phương trời, góc phố của quê-hương. Tôi hồi tưởng, nhớ lại lần đi săn với vài người bạn phi-công, được chiếc trực thăng bốc lên khỏi khu rừng thuộc vùng tam giác sắt PleikuKomtum-Ban Mê Thuột, mới đó vừa băng qua con suối nước chẩy cuồn cuộn để đến bãi đáp, lúc bay lên cao độ, nhìn xuống chỉ thấy cánh rừng như một bức thảm trải dài mầu xanh lá, che dấu không còn thấy những con suối ở phía dưới. Tôi đã liên tưởng đến cuộc tình trong sáng, thánh-thiện thưở ban đầu , không biết Cẩm-Linh có bao giờ thấu hiểu rằng tôi đã yêu nàng tựa “… yêu người như suối cuộn rừng sâu… như con giun ngước lên trời, như trăng sao vời vợi… ” của Phạm Duy qua bài Phượng Yêu. Bản nhạc đó cùng với bài “Em hiền như ma soeur” một thời đã ru ngủ, an ủi cái tâm hồn hoang mang tuyệt cùng của tôi ngày ấy. Bây giờ, ngồi đây giữa đám đồng loại cùng mầu da, cùng ngôn-ngữ, tôi thấy mình như Lưu-Nguyễn đi lạc bao năm nay trở về. Khung cảnh và đời sống quen thuộc vẫn còn đó, tôi một mình vẫn cô đơn như ngày nào. Hôm thứ nhì trên quê-hương, tôi tìm lại chổ cư-xá cũ, căn nhà của bố mẹ tôi nay đã được cả ba gia đình cán bộ chiếm đóng từ ngày gia-đình tôi vượt biên ra đi, căn nhà của Cẩm-Linh cũng thế – toàn những khuôn mặt xa lạ ra vào. Tôi hỏi thăm nhưng chẳng ai biết gia-đình của nàng ở đâu. Thỉnh thoảng nghĩ, hình như tôi đã tiếc cho cuộc tình ngây thơ không trọn vẹn nhiều hơn là luyến tiếc cho cái hạnh phúc vợ chồng vừa mới đổ vỡ. Có lẽ tôi tự biện hộ, cho rằng mình ít nhiều gì đã làm tròn đầy đũ bổn phận với vợ tôi, con tôi. Riêng mối tình xa xưa đã không có đoạn kết, cũng chưa hẳn ngã ngũ khiến cái tiềm thức của tôi thoảng vẫn sầu vơi, nghĩ về nàng.

Trưa hôm đó tôi trở lại trang trại như đã hứa. Lần này gặp soeur Maria – khoảng chừng ba mươi – trông có vẻ tháo vát, nhanh nhẹn – theo lời mẹ bề trên ( soeur Lan) bảo dẫn tôi đi thăm những luống đất mới trồng các loại khoai, bắp, hành, ngò, rau cỏ … để ăn hàng ngày. Còn chỗ các em trú ngụ, lớp học, ngoại trừ cái bảng đen trên tường còn tương đối khá mới, những chiếc ghế ngồi học mang vẻ như cũ kỹ, lung lay. Có lẽ đã được lấy đem cho từ một ngôi trường bỏ hoang nào đó gần đây. Giường ngủ đều làm bằng tre, đốn từ trên rừng đem xuống. Không đủ số giường chiếu cho nên cũng có vài đứa bé được cho nằm chung với nhau. “Nhiêù khi ngủ thế mà chúng nó đâm ra đỡ lạnh, tuy sáng dậy thấy chân đứa này gác lên vai, lên bụng đứa kia…”. Giọng phân trần, kể chuyện của soeur Maria thật vui vẻ, không chút than van, oán trách. Lúc đến gần hàng rào, tôi hỏi thăm về cái diện tích của trại Thiện-Tâm, soeur Maria bảo rằng hiện tại trại chỉ có được hơn năm mẫu, còn thêm vài mẫu đất gần bìa rừng – cũng do chính phủ trợ cấp – chưa được đốn cây, khai phá để làm vườn. Đó là công việc chính của soeur Joanna cùng với mấy đứa lớn mười ba tuổi trở lên trợ giúp. Chiều mai sau khi soeur ấy từ thành phố trở về nghỉ ngơi và sau đó sẽ tiếp tục làm công việc này. Tôi đề nghị nên làm chuồng nuôi heo, gà để lấy trứng ăn hoặc đổi bán lấy thịt, cá cho thêm phần dinh dưỡng. Thêm vào đó dùng phân của chúng nó làm phân bón rất 10 tốt cho việc trồng trọt. Soeur Maria cười, bảo rằng mẹ bề trên cũng đã nghĩ đến, nhưng vì ngân sách đang gặp “sự cố” (hoàn cảnh khó khăn) và không ai biết làm những công việc đóng chuồng đó cho nên tạm để qua một bên. Nghe nói thế, sau khi bàn với người tài xế xe ôm, tôi thân mật tạm gọi là bác tài, rủ bác đi ăn buổi trưa và hỏi thăm chỗ mua sắm những vật liệu xây cất. Bác chở tôi đi một vòng đến hai chỗ bán gỗ, đinh ốc trong phố. Tôi đặt cọc mua một số thanh gỗ, vật dụng, dặn chở đến trại tôi sẽ giao hết phần còn lại. Bác tài cũng ghé ngang qua nhà của bác, lấy cho mượn một vài kìm, búa, đồ cưa tay đoạn chở tôi về lại trang trại. Buổi chiều, mấy đứa nhỏ thấy xe chở gỗ đến và nghe nói tôi sẽ đóng vài cái chuồng gà, chuồng heo cho trang trại, chúng nó bu lại xin phụ một tay. Tôi vui vẻ phân chia công việc khiêng gỗ, cưa gỗ cho mấy đứa lớn, còn mấy đứa bé đứng xì xào, thì thầm nhìn và nói chuyện về gia súc. Trong lúc chờ đợi làm xong chuồng, tôi đưa một số tiền cho soeur Maria đi mua một cặp lợn và một số gà, vịt về làm giống. Khuôn mặt Soeur hớn hở và luôn miệng “Cảm tạ chúa đã dẫn dắt ông có lòng thương đến với các cháu “. Tôi bỗng triết-lý, cảm thấy làm vui lòng thượng-đế có lẽ còn dễ hơn làm vừa lòng con người. Vì ngài hiểu tấm lòng và khả năng của tôi, trong khi con người đôi lúc lòng tham vô đáy, sự hiểu biết nông cạn không biết thế nào là đủ. Như đối với các con tôi ngày xưa, việc đóng chuồng, nuôi hai con thỏ cho chúng nó chỉ là vấn đề giải trí, rồi cũng mau chán, thích những thứ khác. Ở đây, một con gà, một trái trứng vừa đem đến niềm vui cho trẻ con, vừa thêm phần dinh dưỡng cho chúng nó. Tôi tưởng tượng đến những bữa ăn có thêm vài quả trứng, miếng cá, hay miếng thịt … cho những đứa trẻ mồ côi này, tự dưng tôi thấy lòng phấn khởi, hăng hái, bắt tay ngay vào công việc, không muốn phí chút thì giờ.

Trưa hôm sau, đang ở trần mặc mỗi chiếc quần jean vì trời nóng, loay hoay chăm chú đóng gần xong cái chuồng gà - chỉ thiếu vài thước hàng rào với lỗ hổng bằng kẽm để làm cánh cửa. Tôi chợt nghe giọng ai như reo mừng gọi, hỏi tên mình:

- Ah! xin lỗi, có phải Bình đó không?

Tôi quay đầu nhìn qua bên phải, nhìn khuôn mặt và nhận ra giọng nói vừa gọi tên, tôi ngẩn người ngạc nhiên, suýt làm rớt cái búa xuống đất vì người đàn bà trong chiếc áo choàng đen của dòng nữ tu-kín đứng cạnh:

- Cẩm-Linh…! soeur Cẩm-Linh đấy à! Phải rồi. Bình đây … - Chúa ơi! nghe nói Bình ở Mỹ mà người ngợm sao đen đúa như thế này!

Cẩm-Linh đã đổi tên từ lâu, giờ gọi với tên thánh là “Joanna”.

Cẩm-Linh, nay gọi là soeur Joanna, vừa reo mừng và chỉnh lại cho tôi biết cái tên mới của nàng, bước tới đưa tay cho tôi bắt. Nàng bảo vừa mới trở về từ thành-phố Hồ Chí Minh, nghe nói có Việt kiều về giúp làm chuồng nuôi gia súc, định ra tiếp chuyện và cám ơn. Thấy dáng tôi quen quen và nhìn một chập cái nét mặt tôi mải mê làm việc không biết nàng đến gần bên cạnh. Cẩm-Linh nghĩ nàng đoán không sai nên bạo dạn hỏi thăm.

- Chao ơi! bao năm rồi mà Bình không mấy thay đổi … ở Mỹ chắc cuộc sống thoải mái lắm hả Bình?

11 - Soeur nói thật không đấy? Bình mà không thay đổi mấy! tưởng mình già lắm rồi chứ, hay là soeur không có ô-mai định cho Bình uống nước đường, đi tầu bay giấy?

Tôi cười khẽ, chế nhạo Cẩm-Linh với câu chuyện ngày còn nhỏ. Câu nói đùa vô tình làm soeur Joanna có vẻ hơi xúc động. Tâm hồn tôi cũng giao động không kém. Suốt cuộc nói chuyện, gần chót tôi mới nhận ra có lúc lẫn lộn tôi gọi nàng với cái tên “soeur Joanna” một cách cung kính, lúc thì gọi bằng Cẩm-Linh một cách thân mật như ngày xưa. Không ngờ cuộc đời nàng cũng nhiều gian truân, sóng gió không kém . Gia đình nàng toan vượt biên năm bẩy sáu nhưng bị lộ tẩy, bố mẹ nàng bị lính tuần-giang xả súng bắn bỏ thây ngoài sông rạch ở Bến Tre. Cẩm-Linh thoát được nhưng tứ cố vô thân, may nhờ gặp lại bà soeur ở trường cũ cho tá túc trong tu-viện, thời gian ở chung nàng cảm nhận được cái tình yêu của thiên-chúa cho nên đã khấn nguyện khoác chiếc áo dòng với tên thánh là Joanna, và theo chân người mẹ đỡ đầu là soeur Lan hiện tại. Tôi cũng kể sơ qua hoàn cảnh của mình và lý do tôi muốn trở về Việt-Nam. Soeur Joanna ngỏ ý đáng tiếc cho cái hôn nhân đổ vỡ của tôi, và sau đó nhìn tôi mỉm cười, nụ cười với chiếc răng khểnh hiền hậu ngày xưa đã làm hầu như suốt cuộc đời tôi ray rứt, tương-tư - bảo là nàng biết tánh tôi từ nhỏ hiền lành. “Linh đã tin rằng rồi thế nào Bình cũng sẽ làm những việc từ-thiện như vầy…”.

Tôi muốn, nhưng đã kịp thời dừng lại, chỉ sợ xúc phạm – không dám hỏi về chuyện tình cảm của CẩmLinh trước khi nàng mặc áo nữ-tu, theo chân Chúa. Tối hôm đó cả ba người soeur muốn đãi tôi một bửa ăn đạm bạc, canh rau dền luộc cà chua chấm mắm chanh ớt và mấy miếng cá chiên. Tôi không từ chối, ngồi ăn hai bát cơm ngon lành, lòng thấy phơi phới, hân hoan một cách khó tả. Đêm trở về nằm ngủ ở khách-sạn, tôi cảm thấy nó bớt đi cái lạnh lẽo, trống vắng như ngày đầu. Tôi đâm trở thành một con chiên ngoan đạo, quỳ gối bên chân giường đọc kinh Lậy Cha, kinh Kính Mừng mà tôi tưởng đã quên vùi sau bao năm nghĩ mình tội lỗi, biếng nhác đến nhà thờ. Tôi cám ơn Chúa đã giúp tôi thấy lại hình ảnh tuổi thơ cũ, gặp lại người đã làm linh hồn tôi ngậm ngùi, lo âu bấy lâu không biết số phận ra sao. Nay biết nàng đã yên vui với cái hạnh-phúc, với cái tình yêu vĩnh cửu nơi Thiên-Chúa. Tôi thấy nếu được nhắm mắt, cho một giấc ngủ dài vào thiên thu trong lúc này, ngay đêm nay, có lẽ tôi mãn nguyện, đội ơn và sẽ không một lời than trách. Cuộc đời đối với tôi có lẽ thế cũng đã gọi là đủ, nhưng tôi biết mình còn nhiều việc cần phải làm, cái thánh-giá tôi xin mang vì cái tình thương và cảnh khổ đau của người khác đã nung nấu trong lòng bao năm nay. Với sự lao động, làm việc tay chân lúc ban ngày và tìm được điều giải thoát cho cái khúc mắc trong tâm hồn. Tôi nằm lăn quay ra ngủ giấc ngon lành, không mộng mị, hay nhớ gì một giấc mơ nào cho đến sáng.

Những ngày kế tiếp, tôi phụ với mọi người trong trang trại ra vào làm đủ thứ việc. Kể ra những cái tôi từng học hỏi, thu nhặt được trong bao nhiêu năm làm kẻ “handyman” – thợ lặt vặt - độc nhất trong nhà . Bây giờ đâm ra lại đem nhiều ích lợi, thực dụng hơn hết trong hoàn cảnh này. Thấy tôi sửa chữa những chân bàn, chân ghế lung lay, bị gẫy trở thành cứng cáp, vững chắc. Cẩm-Linh bảo với soeur Maria đứng bên cạnh:

- Bình ngày xưa hay làm thơ, bàn tay làm việc văn-phòng mà không ngờ lại giỏi nghề thợ mộc quá há!

- Soeur không biết tên thánh đỡ đầu của Bình là Giu-Se hay sao? Tôi nói.

- Thảo nào, thánh hộ mạng là thợ mộc thì Bình cũng rứa thôi.

12 Soeur Maria cười, cũng muốn góp phần vào câu chuyện. Thỉnh thoảng lúc rảnh rỗi, nghỉ tay. Cẩm-Linh kể cho mẹ bề trên và soeur Maria về những mẫu chuyện ngày xưa của chúng tôi, như chuyện tôi một mình trong đám kẹp tóc hồi còn nhỏ lấy trộm đồ ở nhà để tập tành nấu ăn. Lần hái trái trứng cá liệng chọc đám con gái đi học giáo-lý trong nhà thờ (nhưng nàng không nhắc đến lần bị tôi tinh nghịch bẹo má ). Đôi lúc nàng đang cùng với mấy đứa thiếu-nhi đi chặt cây, khai quang những đám bụi rậm để có thêm đất trồng trọt, không biết nàng trở về trại từ lúc nào để lấy nước uống, tôi tình cờ quay lại gặp nàng đứng lặng yên, đôi mắt hiền hoà nhìn tôi đang đào mương làm rãnh thoát nước. Tôi cũng đôi lần kín đáo ngắm nhìn nàng chăm chú may vá, dịu dàng chải tóc, săn sóc cho những đứa bé mồ côi, ngây thơ . Trông Cẩm-Linh lúc ấy thật thánh-thiện, cao sang vời vợi, giống như trong cái trí tưởng xa xưa của tôi đã nghĩ về nàng. Ngày xưa đóng vai “Đường-Sơn đại-huynh” để bảo vệ nàng “Miêu Khả Tú” nho nhỏ trong mối tình ngây thơ, khờ khạo. Bây giờ ngược lại, Cẩm-Linh có thể cầu nguyện, xin cho tôi được sự tha thứ, chút bình an. Hình như có một cái khoảng cách thiêng-liêng nào đó ỡ giữa hai chúng tôi. Tuy không nói nhưng có lẽ tôi lẫn nàng đều muốn giữ cái cách khoảng vô hình nhưng rõ ràng đó. Nhất là lúc bàn bạc về kinh-thánh, đạo lý. Khuôn mặt nàng như rạng rỡ, hân hoan lên khi nghe tôi nói về cái tình yêu bất diệt, bao la của thiên-chúa, của thượng-đế mà tôi đã nghiệm thấy trong đời. Tôi một lần đổ vỡ với cái tình yêu đã thay đổi theo thời gian, còn nàng – không biết có phải vì không tìm thấy một cái tình yêu nào bền vững, lâu dài hơn cho nên đã chọn con đường đạo, hy sinh cuộc đời này cho tha nhân.

Nhưng nói như thế không có nghĩa là mọi người nên đi tu để được cái tình yêu thánh-hoá, trọn vẹn - hoặc những người đi tu không được phép, có quyền yêu đường người khác. Làm sao cấm cản, lay chuyển được nhịp đập của con tim. Điều này khó có thể chối cãi được, tôi chỉ có thắc mắc riêng một điều là tại sao Chúa lại cho những người như tôi, không những biết yêu sớm mà còn yêu nhiều. Nhưng tôi không yêu nhiều như kiểu của Mai-Thảo. Ông chính thực là một nhà văn sống trọn đời cho vănchương và nghệ-thuật. Dù quen biết Mai-Thảo chỉ một thời gian ngắn, tôi thấy ông yêu nhiều nhưng không muốn bị ràng buộc hay lệ thuộc bất cứ vào ai. Những cái tình yêu có thật đã thoảng qua – hay trong trí tưởng – đã làm văn, thơ của ông xúc tích đầy tình cảm, nhiều lãng mạn. Đối với Mai-Thảo, ông đã “tu” trong văn-chương và sản phẩm tình yêu của ông là những tác phẩm ca tụng về nhiều chuyện tình thật đẹp, tuyệt đối cho dù trong tan vỡ – như sau này khi qua đời, ông cô đơn ra đi chỉ một mình một bóng trong căn phòng studio nhỏ nhắn ở khu phố Bolsa. Còn tôi, tôi thấy mình chỉ là kẻ một bình thường nếu không nói là tầm thường, tại sao Chúa không bắt hoặc cho tôi chỉ yêu ngài từ ban đầu – hay ít ra giống nhà văn Mai-Thảo – sống một mình để yêu - như tôi vừa nói đến. Tôi nhận thấy trong nộitâm cuả mình hình như đang có sự xung khắc giữa cái ích kỷ, muốn thố lộ cho Cẩm-Linh biết rằng tôi vẫn còn yêu nàng, và phần muốn nàng vẫn yên vui, hạnh phúc trong cái chân-lý nàng đã thề hứa, theo đuổi bấy lâu nay. Giữa cái khổ trước đó không biết cuộc đời của Cẩm-Linh đã ra sao và cái dằn vặt mới đây của nội-tâm. Tôi làm theo lời của nàng thường nói: “Cầu xin thì sẽ rõ lời giải đáp của Chúa. Em thấy luôn luôn được sự soi sáng khi lòng mình đã thật tâm muốn biết “.

Hôm sau, trong lúc đang đổ đống xi-măng cuối cùng làm cái nền cho căn nhà thứ tư của trại Thiện-Tâm, tôi bỗng nghe một tiếng nổ ầm vang dội từ xa. Chợt nhớ nó tương tự như tiếng nổ của một quả lựu đạn hay của một trái đạn phóng lựu M79 thời còn chiến-tranh. Thấy khói bụi bay lên gần phía bìa rừng, chỗ soeur Joanna và một đứa thiếu-nhi đang chặt cây, cuốc đất. Một nỗi lo sợ từ đâu chợt xâm chiếm tâm 13 hồn, tôi vội vàng bỏ cái xẻng cầm trên tay, tất tả chạy về phía mé rừng. Sau hơn hai mươi lăm năm chinh chiến, bao nhiêu tai ương, thảm hoạ vẫn còn vương vất, đôi khi xẩy đến cho bao người dân vô tội.

Thỉnh thoảng vẫn còn vài người tử-vong, thương tích nặng vì vô tình cầy, cuốc trúng những đạn bom hay quả mìn xưa kia đã gài bẫy, để lại quên chưa tháo gỡ, chưa nổ. Đến nơi, tôi thấy một thằng nhỏ mình bê bết, dính đầy máu nằm duỗi thẳng yên không nhúc nhích. Tôi cầm lấy cổ tay nó để tìm nhịp mạch máu và ghé tai lên lồng ngực nghe trái tim đập. Tất cả đều im lặng, ngưng đọng. Lật mí mắt nó để hy vọng cái sự sống vẫn còn trong thằng bé. Thấy con mắt nó trợn ngược. Tôi biết rằng đã trễ. Vuốt mắt và đặt thân thể nó xuống đất. Quay nhìn tìm kiếm Cẩm-Linh, tôi thấy ở cạnh bìa rừng, cách tôi độ chục bước, nàng đang khuỵ xuống quỳ bên một đầu gối, tay phải ôm chặt lồng ngực như thể người đang lên cơn đau tim. Tôi phóng tới kịp lúc để đỡ nàng ngả vào người tôi:

- Bình ơi, bé Kiệm bị thương nặng không? Sao Linh đau ngực quá...!

Tôi chưa muốn cho nàng biết gì về tình cảnh của bé Kiệm trong giây phút này, chỉ nhẹ gỡ bàn tay CẩmLinh đang nắm chặt trước ngực, xem vết thương nặng nhẹ như thế nào. Ngực áo nàng bây giờ đang vấy đầy máu. Một mảnh kim loại đã xuyên thủng chiếc áo dòng, cắm ngập vào ngay dưới vùng trái tim của nàng. Tôi không phải là y-sĩ nhưng đủ để biết vết thương của Cẩm-Linh nếu không có phương tiện cấp cứu khẩn cấp thì cơ hội cứu sống thật quá mong manh. Trong hoàn cảnh này, tôi chỉ muốn gào lên thật to cho mọi người, cho thượng-đế thấu nghe tiếng thống thiết, nỗi đau đớn trong lòng tôi. Xa xa, thấy bóng mẹ bề trên và soeur Maria cùng mấy đứa trẻ lúp xúp, hốt hoảng chạy đến. Tôi để đầu của CẩmLinh ngả vào vai mình, vỗ về hỏi thăm cho nàng dịu cơn đau, nhưng Cẩm-Linh chợt run người, giọng mệt nhọc:

- Bình ơi! sao em lạnh quá, ôm em một chút đi anh!!!

- Nằm yên, có anh đây. Cẩm-Linh đừng nói nhiều kẻo mất máu thêm … Tôi vòng tay ôm xiết chặt lấy Cẩm-Linh vào lòng, muốn dùng tất cả bình sinh, nghị lực con người của tôi để truyền sang, sưởi ấm nàng. Nhưng tôi biết tất cả đã muộn, nàng mất máu quá nhiều. Ở một chốn héo lánh, xa xôi cách biệt, thiếu thốn đủ mọi tiện-nghi cần thiết. Không một trạm y-tế cứu thương hay một bệnh-viện nào gần đây. Tôi cảm thấy mình hoàn toàn bất lực, hèn mọn trước cảnh đau thương, đành đoạn này. Gương mặt Cẩm-Linh vốn đã tiều tuỵ, gầy yếu nay lại càng thêm xanh xao, trắng bệt.

Giây phút chờ đợi trôi qua tưởng chừng như thiên thu, Cẩm-Linh chợt hé mắt, nhìn thấy trên khuôn mặt của tôi thoáng nét tuyệt vọng, buồn bã, nàng khẽ mỉm cười như an ủi. Nụ cười với chiếc răng khểnh năm xưa không bao giờ xoá nhoà trong tâm khảm, trong hồn tôi. Giọng nàng thoảng nhẹ như giấc mơ:

- Đừng lo nhiều cho em nghe anh. Em thấy hình như có thiên thần với áo trắng đứng trong ánh sáng đang dang tay chờ đón … Có lẽ Chúa đã gởi anh về đây để tiếp tục công việc, cho em được yên nghỉ.

Em sẽ chờ anh … Nàng chợt ngắt quãng vì một dòng máu đỏ thắm vừa trào ra lên khoé miệng. Tôi ôm đầu nàng để dựa sát vào ngực, tôi cố nhếch môi cười cho nàng an tâm trong lúc hai giòng lệ lăn dài trên má:

- Anh biết, rồi mình sẽ gặp lại nhau. Nhưng Linh ơi, tha thứ cho anh ngày xưa đã không hề nói một lần với em … 14 Đang nói, tôi cảm thấy bàn tay của Cẩm-Linh bóp nhẹ tay tôi như muốn nhắn điều gì. Đôi má nàng chợt hồng lên rạng rỡ một cách lạ thường, ngước lên với cái nhìn thật hiền, trìu mến, môi nàng mấp máy:

- Linh biết, trong lòng em đã mãi mãi vẫn biết như thế, biết từ ngày em dậy anh học câu “Ngộ ái nị” … Tôi cười qua nước mắt:

- Hoá ra anh tưởng chỉ riêng mình anh còn nhớ “Ngộ ái nị”. Anh yêu em. Anh vẫn yêu Cẩm-Linh từ thưở đó. Chúa ơi! ngày xưa sao không cho anh nói được một cách dễ dàng … - Đừng tiếc anh ạ, có lẽ ý Chúa muốn đôi ta mỗi người phụng sự ngài một cách. Rồi chúng ta gặp nhau để làm nốt công việc cuối cùng này. Đến lúc Linh phải đi, họ đang chờ đợi em… Anh yêu, đừng buồn anh nhé. Em sẽ luôn luôn bên cạnh anh… Giọng Cẩm-Linh nhỏ dần, nhỏ dần và cuối cùng bằng một tiếng thở hắt thật nhẹ, cánh tay nàng buông xuôi, đôi mi khép kín vĩnh viễn. Khuôn mặt nàng bấy giờ trông thật bình thản như đang dựa trên vai tôi, ngủ một giấc mãi mãi thôi không còn mộng mị. Mặc dù đã nghĩ và cho rằng cái lòng tin vào Thiên-chúa của tôi thật vững vàng và sẽ không hề bị suy suyễn. Tôi quá đớn đau để mở miệng kêu than hay cầu xin cho linh-hồn của nàng. Chỉ nhớ mang máng rằng hình như trong lúc mọi ngừơi đến tụ tập, vây quanh quỳ xuống đọc kinh, tôi vẫn ôm xác Cẩm-Linh và thì thầm lấy một mình dăm ba câu chữ Tầu mà ngày xưa nàng đã dậy tôi thưở mới biết yêu lần đầu.

SVT-2001

Về đầu trang


NGỦ ĐƯỜNG

Trần Văn Sanh

"Khùng, khùng! Thật là khùng hết sức!" Đạm tự lẩm bẩm một mình giữa đêm khuya.

Hắn nằm co ro trong cái túi ngủ và nghe ngoài trời mưa từng hạt nhỏ rơi đều đặn trên căn lều mà cả nhà hắn nằm chen chúc, ngổn ngang như cá hộp. Đạm hơi cáu sườn vì nếu mấy đứa nhỏ đừng đòi đi cắm trại thì giờ này mọi ngừơi đã thoải mái ở trên giường với chăn êm, nệm ấm.

Đâu có phải nằm chật chội, chịu trận dưới cảnh mưa gió lạnh lẽo như thế này! Shoot! Đạm chửi thề và bất giác cười khan trong cuống họng với cái ý nghĩ vừa thoáng qua trong đầu. "Bao nhiêu kẻ không nhà, không cửa chỉ cần một chỗ chui ra, chui vào để ở. Mình lại đâm đầu, phí thì giờ phí của để "được " ngủ đường, ngủ chợ. Đúng là dân sứ giầu sang, dư thừa rửng mỡ!" Đạm lắc đầu như muốn xua đuổi cái ấn tượng rằng ít nhiều gì, hắn đã bị đồng hoá với cái đời sống xa-hoa ở đây. Nghĩ cho cùng, giá đừng bị mưa gió, thời tiết nắng ráo thì kể ra cho trẻ con sinh hoạt, cắm trại ngủ ngoài trời cũng thú vị, lành mạnh lắm đấy chứ.

Đạm cố moi móc tìm một cái lý do để biện-hộ, lấn áp sự bực mình trong lòng đã làm hắn cảm thấy trằn trọc, khó ngủ. Hồi còn niên-thiếu, Đạm rất mê gia-nhập đoàn Hướng-Đạo để được phiêu lưu, mạo hiểm đây đó. Bà già của Đạm tại cưng thằng con trai lớn, sợ ra đường "gió máy", tai nạn nên giữ hắn rịt ở nhà. Đạm theo năn nỉ, ỷ ôi mãi thiếu điều bà già muốn phát khùng vì tật nói dai và rốt cuộc đành phải chiều ý hắn. Đạm nhớ mãi cái cảm giác lâng lâng, hào hứng của ngày đầu tiên xa nhà, vào rừng cắm lều, giăng trại ngủ ngoài trời. Nào là những trò chơi có tính cách tháo vát, học cách thức đi rừng, thi đua nấu ăn, đánh morse, cấp cứu … Tối đến đốt lửa trại, ngồi quây quần diễn những màn kịch ngắn vui nhộn và sau đó là kể chuyện…ma. Bởi đã từng trải qua những ước ao, cùng sở thích như thế, Đạm chiều ý con khi tụi nhỏ muốn cả nhà đi camping nhân dịp ngày lễ Tưởng-Niệm Chiến Sĩ trận vong (Memorial Day).

Mấy năm trước Đạm đã không nghĩ đến vì con hắn còn nhỏ và hắn thì bận lu bu với hãng. Năm nay vợ hắn về cùng phe với tụi nhóc nhất định đòi phải đi cho bằng được. Nàng vốn xuất thân thuộc hạng tiểu-thư, con nhà giầu gia đình cưng và giữ kỹ như mèo dấu… caca. Khiến ngày xưa khi mới bắt đầu tập làm thơ để "dê" nàng, Đạm đã phải thốt lên "Nhà em kín cổng cao tường quá. Một lần thoáng gặp bỗng ngẩn ngơ…" Đạm nghe vợ kể bố nàng có lần "phán" rằng, con gái rượu của ổng chả cần học nữ-công gia chánh chi cho mệt. Lấy chồng đã có người làm, người hầu, hoặc đi ăn nhà hàng, ăn tiệm. Rủi một điều là duyên nợ xui khiến cho nàng gặp hắn. Vừa nghèo lại còn gàn. Hồi mới lấy nhau vợ Đạm đã hỏi dò xem hắn có thuộc vào loại khó, kén ăn như ông bố vợ. Đạm chỉ cười ruồi, trả lời nửa nạc nửa mỡ: "Xời! nhằm nhò gì ba cái vụ ăn uống lẻ tẻ đó em. Tánh của anh dễ ợt, sao cũng được, miễn … ngon thôi!". Vậy đó mà sau mười năm với "khói lửa", vợ Đạm biết nấu nhiều món ăn của ba miền Bắc Trung Nam. Chừng ông già nàng gặp lại cô con gái quý đã không ngờ và lé mắt phục sát đất. Đại khái vợ Đạm chưa hề nếm mùi "sương gió" như hắn. Ngoại trừ cái đêm nằm bãi ở Bình-Tuy chờ vượt biên thì khỏi kể. Bây giờ no ấm, yên bình rồi nàng cũng muốn thử sống cảnh thiên-nhiên ngoài trời xem nó như thế nào. Hôm chuẩn bị đồ ăn, đồ dùng để đi cắm trại. Đạm thiếu điều muốn phì cười, nhìn cái tờ liệt kê danh sách những thứ "cần phải" mang theo của vợ con hắn. Mấy đứa nào là muốn đem theo máy cassette, cái TV nhỏ, cần câu, phao tắm, sách truyện nhi đồng, đồ chơi, v.v… Vợ của Đạm định đem theo nồi niêu xoong chảo, đồ ăn đủ cho nguyên một … tiểu đoàn tầu ô chết đói, đớp hít cả tháng vẫn không hết! Ấy là chưa kể lều cọc, chăn gối và hai cái vali to tổ chảng đựng quần áo, đồ tế nhuyễn của nàng. Mà xe của gia đình chỉ vỏn vẹn cái station wagon nhỏ xíu. "Điệu này chắc mình phải thuê cái vận tải U-HAUL cỡ hai mươi lăm feet mới đủ chỗ em à!". Cuối cùng, nhờ tài ngoại giao, trả giá, lẫn thuyết phục (và hù… ông kẹ) của Đạm mà mọi người đồng ý bỏ bớt lại những thứ không mấy cần thiết. Vậy mà cũng đầy nhóc đồ cột trên mui và vô số còn lại lẫn lộn với người ngồi chật kín trong xe. Nhớ lại ngày xưa mỗi kỳ chuẩn bị đi cắm trại ở Việt Nam, Đạm thấy vợ con hắn còn sướng hơn hắn gấp trăm lần. Chẳng những hắn đã không có đầy đủ những tiện nghi như cái bếp gas nhỏ, TV, máy phát điện sách tay… Phương tiện di chuyển thưở ấy chỉ là chiếc xe đạp cọc cạch, cũ kỹ. Nấu nướng thì toàn bằng củi . Cả bọn hướng-đạo-sinh tha hồ tha phiên nhau chổng mông ra để mà quạt, mà thổi. Đạm không hiểu tại sao cái tuổi lõi tì mười bốn, mười lăm lại có sự chịu đựng dẻo dai để đeo cái balô nhà binh, đựng đủ thứ đồ lỉnh kỉnh trên đôi vai gầy, lại còn phải đạp xe suốt mấy chục cây số và đến nơi vẫn còn hơi sức để mà thi đua, nghịch phá. Đạm buồn cười, tưởng tượng rằng nếu bảo vợ con bắt chước cái màn camping, cắm trại kiểu như hắn ngày xưa thì có lẽ cả nhà thế nào cũng khóc thét, nản chí chả dám đòi đi đâu nữa.

Trong những kinh-nghiệm đi hướng-đạo ngày trước của Đạm, hắn vẫn còn nhớ cái bài học rằng một lý lô mang trên người, sau khoảng chừng một cây số sẽ trở thành nặng năm ký. Cái kinhnghiệm "vô giá" ấy đem qua bên này áp dụng bỗng trở thành trật lất, sai bét tĩ khi "gia-đình bác Đạm" lần đầu tiên tung tăng lên đường đi camping. Buổi sáng, sau khi coi lịch lấy giờ lành, nhắm kỹ hướng tốt (nhưng quên tía ba cái vụ thời tiết!) cả nhà Đạm bèn nao nức lên xe xuất hành. Đi khỏi nhà chưa đầy hai mươi phút, nửa tiếng. Vợ con Đạm kêu ầm lên đói bụng và vội vàng bắt tay nhau vào thanh toán bữa sáng, đớp xả láng. Hơn một tiếng đồng hồ sau, tình trạng ấy lại tái diễn! và tiếp tục tái diễn cứ mỗi hai, ba trăm dặm trong lúc Đạm ngồi còng lưng lo chăm chú lái xe. Thời may chả mấy chốc đến nơi và Đạm phải bảo mọi người xì-tốp, ngưng bớt, không thì chưa đến đâu mà một tấn đồ ăn cũng đã trở thành năm tấn…rác! Thêm vào đó là nếu biết đặt chỗ từ trước thì gia-đình của Đạm đã nhập trại sớm cả độ hơn một tiếng đồng hồ. Âu đây cũng là bài học "ăn chơi" đầu tiên ở Mỹ cho Đạm. Tưởng thiên-hạ không biết hưởng thụ, tiêu du như hắn và cũng cái tật gàn bướng, lè phè "ối! nhằm nhò gì ba cái chuyện lẻ tẻ đó em, thiếu gì chỗ để mình chọn…" Đạm gạt bỏ lời đề nghị của vợ hắn. Sau khi đến nới đã dự tính. Đạm nới vỡ lẽ ra rằng người ta đã chiếm hết chỗ. Lái xe lòng vòng tới thêm ba, bốn cái công-viên khác dành riêng cho những ngừoi cắm trại. Chỗ nào cũng đông nghẹt trại-viên.

Lều võng thôi thì giăng mắc trùng trùng, điệp điệp. Tính "cắm dùi" đại ở một góc rừng nào đó cũng không xong vì luật lệ ở đây khắt khe, chẳng dễ như ở Việt Nam. Lạng quạng bị giấy ticket, tiền phạt nặng như… thiến! Sau gần một giờ chạy tứ tung đi tìm "đất hứa". Vợ chồng Đạm hơi nản chí, tính chuyện quay "trở về mái nhà xưa" cho tụi nhỏ chơi cái màn cắm trại phía vườn sau nhà. Nhưng nhìn mấy bộ mặt chẩy dài, buồn thiu như cơm nguội của mấy đứa, cả hai cũng không nỡ đành. Thời may gặp cái công-viên cuối cùng trong cái bản đồ mục lục du hí vẫn còn vài chỗ trống. Mừng quýnh. Trong chớp mắt, cả nhà Đạm ào ào, vội vàng đổ quân xuống "cắm dùi", như sợ ai nhanh chân ùa vào chiếm mất! Ghi danh nhập trại xong đâu đấy là vợ của Đạm dành lo phần nấu nướng (khiếp! lại một màn ăn uống nữa!). Đạm và hai đứa lớn lo đóng cọc, căng lều. Khay thịt sườn được vợ của Đạm ướp tiêu hành xả tỏi đêm hôm trước bây giờ đem ra nướng, khói bay làm "điếc" lỗ mũi tụi Mỹ ở ngay bên cạnh. Chả mấy chốc, hai cặp vợ chồng Mỹ tuổi xồn xồn mon men đến hỏi chuyện làm quen và khen nức nở:"Gớm! tụi bay BBQ (nướng) cái gì mà ngửi thơm thế?". Sẵn máu anh hùng và tự ái dân tộc, Đạm hiên ngang đem khoe và tặng mỗi người một xâu thịt sườn nướng nhậu thử. Anh Mỹ già, tay cầm sẵn lon bia – sau khi cám ơn rối rít – đớp một hai miếng rồi cười hể hả:

- Cắm trại mà ăn ngon như tụi mày vậy là nhất nước Mỹ. Phải chi cái hàm răng giả của tao còn tốt thì nhâm nhi thêm vài cái sườn nướng nữa cũng chưa đã. Ước gì vợ tao biết làm được ngon như thế nhỉ?" Ăn uống đâu đấy xong xuôi, Đạm nhập bọn với tụi con nít, dậy chúng nó chơi vài trò chơi Việt Nam và bị quần thảo cho một chập, hắn mệt thở ra khói. Mới năm năm ngồi văn phòng làm việc bàn giấy mà hắn đã tiêu tùng cái phong độ của thửơ trai tráng! Bởi thế khi trời vừa xụt xịt, "tè" vài giọt mưa là hắn liền lấy cớ chui vào lều, nằm kềnh lôi ra cuốn truyện của Tom Clancy đem theo để đọc. Đọc sách chưa đến đâu, chiều đã xuống vội vàng và Đạm nhìn trời thấy mây xám giăng kín. Mới đầu mưa từng hạt nhỏ, trời còn oi ức, ẩm thấp nên tụi con nít càng khoái dầm mưa chơi u, chơi tạt lon. Không ngờ ba cái trò chơi giải trí tầm thường, giản tiện "xuất cảng" từ Việt Nam của chú lỏi tì Đạm ngày xưa, bây giờ truyền lại cho con vậy mà đâm ra hào hứng, "exciting", "wonderful" ngay cả với con nít Mỹ. Mấy đứa tóc vàng, mắt xanh mũi lõ ở cùng trại thấy lũ con của Đạm chơi trò lạ mắt, thoạt tiên mon men đứng gần tò mò, quan sát.

Chừng thằng Cường, con trai lớn của Đạm, rủ chúng nó vào và giải thích luật chơi. Sau một hồi, đứa nào đứa nấy đều khoái chí, cười vui la hét ồn ào như cái chợ. Vợ của Đạm cũng vui không kém. Quanh năm suốt tháng ở nhà cảnh tù túng, bận rộn với con cái, giặt dũ bếp núc, bây giờ con nít được tự do thả rông đi chơi, nấu nướng chỉ cần vài ba lon đồ hộp, món thịt vịt quay, heo quay mua sẵn ở khu "China tầu" từ bữa trước. Ly chén sài toàn bằng giấy. Khỏi lo rửa ráy, bầy vẽ phiền phức. Rảnh rỗi, nàng dắt đứa con gái đi bộ, lang thang xuống bãi biển nhặt vỏ sò, vỏ ốc. Nước biển chưa đến mùa hè nên vẫn còn lạnh… quắn cả lông chân nên chả ai thèm bơi.

Mấy đứa đòi đem theo phao tắm bị Đạm bắt để ở nhà, giờ mời thấy bố nói rất ư chí lý!

Trời càng về chiều, mưa mỗi lúc càng lớn. Gió từ biển thổi vào cũng bắt đầu có vẻ lành lạnh.

Tại cứ ỷ y không theo dõi cái "tin tức khí tượng cho tầu chạy ven biển…" của đài truyền hình trước hôm đi. Vợ chồng con cái nhà Đạm, qua cái giai đoạn đầu mới đến trại tung hê, hí hửng vui với cảnh thiên-nhiên. Tối chập choạng vừa đến cả lũ đã hè nhau chui vào lều, áo quần, đầu tóc ướt lạnh, tái mét như chuột lột. Nhân dịp lúc mọi người quây quần đông đủ, Đạm kể chuyện đi hướng-đạo ngày xưa của hắn cho cả nhà nghe. Đạm không dám kể chuyện ma quái vì sợ con hắn nhát cáy, tối đâm ra khó ngủ! Thằng Cường, thằng Thắng có vẻ thích thú khi nghe kể về những vườn trái cây ở Lái-Thiêu, Bình-Dương. Những mương rãnh, sông ngòi, ruộng đồng đầy tôm cá ở Việt Nam mà bố chúng nó mỗi lần cắm trại thường mua tận vườn, hay đi câu, đi vớt – không phải mang theo những lon đồ hộp, thức ăn bán sẵn như bên này. Đạm nghĩ giá mà đất nước thật sự được tự do, yên bình – dắt tụi nhỏ về thăm vùng đồng bằng ở miền Nam, những bãi cát sạch nước trong vắt như ở Phan Rang, Phan Thiết, Ninh Chữ… thì thật là thần tiên biết mấy.

Nhìn vợ con hắn nằm xung quanh ngáy khò, ngủ yên giấc. Đạm nằm vắt tay hồi tưởng miên man lại cái hình ảnh tuổi thơ ấu, suốt ngày chỉ biết ăn uống rong chơi, ngày hắn theo đoàn hướng-đạo đi vào những khu làng mạc hẻo lánh. Thốt nhiên, Đạm bỗng nhớ lại cảnh TV, cách đây không lâu, chiếu đoạn phim tài liệu nói về đời sống người dân hiện tại của cái thành phố mà hắn đã sinh trưởng, rời bỏ. Đó là cảnh tượng của những người bất đắc dĩ "được camping" dài dài – chẳng kể mưa nắng, sương gió – nằm lê la, vất vưỡng khắp đầu đường, xó chợ. Đạm cảm thấy rằng hắn có thể chở cả gia đình bất cứ lúc nào, quay về với căn nhà với cái giường đầy êm ấm, khô ráo. Tối thiểu hắn còn có được một sự tự do chọn lựa. Những kẻ ở bên kia bờ TháiBình-Dương không có cái diễm phúc cỏn con, nhỏ nhoi đó. Nghĩ thế, Đạm nhận ra rằng cái sự cáu sườn, bực tức khi nẫy của hắn thật hơi quá đáng. Bây giờ hắn chỉ mong sao ngày mai nắng lên dùm một tí. Không thì chắc có lẽ đành phải kéo quân về. Sương gió mãi thế này cũng có ngày ốm ho, kèn cựa chứ không chơi!

SVT 1989

Về đầu trang

NHẠC VIỆT & MẸ TÔI

Trần Văn Sanh

Đọc bài "Má Tôi Làm Ca Sĩ" của Minh-Trang, tôi cứ tủm tỉm cười nhớ đến mẹ. Mẹ tôi không phải là không thích làm ca sĩ, bà rất thích nhạc và có lẽ cũng thích hát, cho dù đôi khi không hát thành lời. Ngày tôi khoảng chừng chín, mười tuổi - mẹ mua một cuốn sách bìa cứng trong toàn giấy trắng thật dầy, cỡ hai ba trăm trang gì đó - vì tôi có hoa tay, viết chữ đẹp - nên mỗi khi nghe đài phát thanh có những bản nhạc mà mẹ thích, bà thường hay bảo tôi ra tiệm sách ở gần nhà, mua bản nhạc ấy rồi chép vào sách để thỉnh thoảng hát cho một mình mình nghe.

Nghe nói bố tôi ngày xưa cũng là một tay chơi và dậy dàn Mandolin, và có lẽ vì nhờ hai giòng máu nghệ-sĩ của bố mẹ, sau này tôi với người chị cả yêu thích âm-nhạc cũng không kém. Một kỷ niệm vui của hai chị em tôi là vì mê nhạc, cho nên hai chị em thỉnh thoảng bớt ăn sáng, để dành và hùn tiền mua những bản nhạc thịnh hành thời bấy giờ, như bài "Người Em Sầu Mộng" của Y Vân, rồi lại nhờ tôi ghi ghi chép chép vào cuốn album của mẹ. Lâu lâu hai chị em cãi cọ, giận nhau, tôi chơi ngang đòi chị phải trả lại tiền mua nhạc. Không biết có phải vì chị cãi không lại hoặc tại vì thương và hay nhường nhịn thằng em nên lần nào tôi cũng "thắng". Sau này qua bao nhiêu năm suy ngẫm, tôi thấy phúc cho ai (nhất là con trai) có được một người chị cả, vì sau mẹ - có lẽ không ai sẽ thương em bằng chị. Biết vậy mà tôi vẫn cứ bắt nạt chị mình hoài!

Vì mẹ yêu nhạc - hay nói đúng hơn, có một tâm hồn nghệ-sĩ - cho nên khi tôi muốn học đàn piano, học guitar, học vẽ...thứ nào mẹ cũng sẵn sàng cho. Nhưng có lẽ cái bản tánh lơ tơ mơ của tôi đã có từ bé, thành thử học thầy chả bao lâu tôi lại chán, muốn học thứ khác. Đến nỗi, mẹ tôi thường hay than rằng: "thằng này, chắc về sau lắm nhân tình hoặc nhiều đời vợ với cái tánh tình mau chán của nó!". Ai dè, trong tám người con của mẹ, ai nấy đều cũng đã ít nhất một lần ly dị, riêng tôi lại "ương ngạnh" mãi đến bây giờ - sau gần 40 năm mà vẫn còn theo phò mỗi chỉ một người! Nghĩ lại, có lẽ tôi giống mẹ nhất chỉ hai điều đó: yêu âm nhạc và lòng chung tình. Mẹ tôi yêu nhạc đến độ khi không còn phải đi làm kiếm tiền nữa, mẹ kiếm mua cái Keyboard rồi ghi danh học và tự đánh đàn rồi hát một mình. Thực ra, cũng chẳng phải vì tánh của tôi mau chán - tôi không thích học đàn guitar nữa vì thấy ông thầy có vẻ như muốn kéo dài, câu giờ. Đến khi khoảng chừng 13, 14 gì đó - tôi bỏ học đàn dương cầm chỉ vì sợ mình sẽ mê một cô giáo dậy thế, đó là một cô SV năm thứ nhất trường Quốc Gia Âm Nhạc - mà theo tôi có một cái vừa đẹp duyên dáng vừa liêu trai - đâu ai ngờ một "ông cụ non", còn nít ranh lại biết chuyện yêu đương sớm thế!

Đến bây giờ, thỉnh thoảng mẹ lại bảo tôi gởi cho bà cái CD toàn những bản nhạc xưa, nhạc tiền chiến để mẹ tôi dợt hát. Cũng may, hồi đầu năm 75 sau khi vừa qua Tết, biết trước thời cuộc cho nên tôi đã thâu sẵn và mang theo cả thẩy mười cuộn băng cassette trên chuyến tầu vượt biên - những bản nhạc mà tôi biết bố mẹ tôi yêu thích, như bài Nhớ Bến Đà Giang, Đường Về Việt Bắc, Vợ Chồng Quê, Đôi Mắt người Sơn Tây...toàn những bản nhạc cũng đã đưa tôi "về nguồn" sau những năm ăn chơi, trở thành hippy chỉ nghe thích nhạc ngoại quốc. Sang bên này, cứ mỗi 5, 7 năm tôi lại sang những cuốn băng cũ qua băng mới, tape mới hay kỹ thuật mới để khỏi bị mai một. Biết thế cho nên mẹ xem tôi như là nguồn chuyên cung cấp nhạc xưa cho bà.

Thỉnh thoảng, cũng có lúc nghe lại một vài bản nhạc cũ, tôi không ngờ nó đã ăn sâu vào tâm khảm của mình từ bao giờ mà mình không hay biết, chẳng hạn như bài "Chuyến Đò Vỹ Tuyến" của Lam-Phương mà xưa kia hay nghe Hoàng Oanh hát - mỗi lần người ca sĩ ấy bỗng chuyển sang giọng ngâm tựa như một lời cầu xin "Để mai đây quân Nam về Thăng Long, đem thanh bình sưởi ấm muôn lòng..." - hay câu " Từng đoàn trai ra đi đã thề chẳng trở về..." trong bài Tha La Xóm Đạo - đều làm tôi muốn rưng rưng nước mắt, vì sự thật đã không được như thế khiến bao nhiêu triệu sinh linh vẫn phải lầm than.

Có lẽ nhờ mỗi ngày được nghe nhạc Việt từ ngày còn nhỏ và được mẹ nhờ viết lại những bản nhạc mẹ thích, âm nhạc đã tiềm ẩn trong tâm thức của thằng nhóc con cho nên sau này chỉ cần một dịp nào đó đã mở khóa dẫn đưa tôi nhanh chóng quay về nguồn, tìm lại những vẻ đẹp của quê-hương và khát vọng của đất nước qua những bài hát đã có từ xưa, từ lúc tôi còn "...nằm nôi, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi...." mà Phạm Duy đã gửi gấm vào trong bài Tình Ca của ông.

Tôi nghĩ không chừng lúc mình về hưu, tôi cũng sẽ như giống như nhân vật trong "Má tôi làm ca sĩ", tôi sẽ cầm lại cây đàn guitar, tuy chỉ tự mình đàn nghêu ngao chơi cho đỡ buồn chứ chẳng hát hò gì cả cho ai nghe - giống như sau hơn 20 năm lo chuyện gia đình, khi chiếc máy ảnh kỹ thuật số (digital) ra đời tôi mới thực sự cầm lại cái máy ảnh, và từ đó đi đâu tôi cũng mang theo bên người, nhớ lại cái thưỏ bắt đầu vào ngành báo chí. Còn riêng về nhạc thì ngay sau khi đã đặt chân lên nước Mỹ, trong nhà của cải chẳng có gì đáng giá bằng cái giàn máy nhạc với cặp loa Bose 601 mà hơn 20 năm sau nghe vẫn còn hay như ngày đầu, giá tiền của nó thì khỏi nói, hơn cả hai, ba tháng lương tôi làm cuối năm 75. Nhiều khi tự hỏi, nếu không có nhạc thì cuộc sống và tâm hồn mình sẽ ra sao nhỉ. Eo ơi, chắc chắn sẽ chán lắm.

Cám ơn bạn Minh-Trang đã có công và có tài viết lại những kỷ niệm của mình, nhất là đã chia sẻ cho mọi người cùng đọc để thấy cái hay, cái đẹp và những thi vị của đời người.

SVT

Về đầu trang


NHỮNG MÙA XUÂN KHÔNG ĐẾN

Trần Văn Sanh

Sau khi đảo một vòng quanh thư-viện và lướt mắt nhìn qua những tấm tranh sơn dầu treo rời rạc, xen kẽ ở bốn bức tường trắng ngả mầu. Người con gái dừng lại ở một góc cuối phòng, cũng chỗ cũ như chiều hôm trước. Tiến thấy nàng đứng chăm chú ngắm bức hoạ khu rừng xơ xác lá vàng có con suối nhỏ khô cạn. Mái tóc dài ngang vai che xoã nửa khuôn mặt dường như trái soan, khiến Tiến không thể đoán được tuổi tác hoặc nàng đang nghĩ gì. Sáng chủ-nhật thời tiết bắt đầu vào xuân. Nắng ấm đã trên cao ngọn cây. Phòng triển lãm của thư-viện Đà-Lạt chỉ lác đác vài người thưởng ngoạn. Ngoài Tiến và đôi nhân tình trẻ tuổi đương bá vai, bá cổ thì thầm to nhỏ, nàng là người thứ tư có mặt trong căn phòng cô động, tĩnh mịch thoang thoảng mùi giấy cũ, ẩm mốc. Lúc nàng bước vào, Tiến đang ngồi đọc sách sau cái bàn giấy to lớn ở một góc cửa. Khuất lấp bởi cái bảng gỗ giới thiệu chương-trình văn-hoá cuối tuần của thư-viện, đặt ngay giữa lối đi. Nàng hình như mải nhìn thẳng về phía trước nên có lẽ không trông thấy Tiến. Chàng đoán nàng mới từ nhà thờ tan lễ, trên đường về ghé ngang. Quyển thánh-kinh nhỏ bìa đen sờn gáy cầm trên tay và dáng nàng đứng xem tranh khiến Tiến cảm tưởng như một con chiên ngoan đạo đang tập trung tư-tưởng cầu nguyện. Sau một chập thấy nàng vẫn đứng yên chỗ cũ. Tiến đứng dậy đi lại gần và cố tình nhấn mạnh gót giầy để nàng nghe và khỏi bị giật mình. Nàng bước hơi tránh sang một bên khi biết Tiến đến đứng cạnh. Đôi mắt vẫn không rời bức hoạ. Tiến tò mò muốn tìm hiểu những ý nghĩ trong đầu của người con gái lạ này. Chàng ngần ngừ đợi sau vài phút trôi qua, lúc nàng khẽ vén mái tóc loà xoà trước trán, Tiến mới nhẹ nhàng lên tiếng:

-Cô thích tấm tranh này -Vâng. Trông nó ngồ ngộ và buồn thế nào ấy!

-Tôi tưởng “ngồ ngộ” là dễ thương, kỳ lạ, hoặc vui. Sao lại có cả buồn trong đó? Tiến hỏi.

-Ông có thấy mầu sắc và cảnh vật buồn thảm? Ngồ ngộ là tại cái tựa đề của nó: “Bên kia rừng vào thu”. Thu phải là mùa thu hết chứ. Không lý “bên này” vẫn còn là mùa Hạ, mùa Xuân?

-Cô có thể nói đúng. Tôi cũng nghĩ rằng tác giả cố ý muốn như thế … -Ông nói có vẻ quả quyết, chắc ông là chủ nhân của bức tranh?

-Vâng. Và nó sẽ là của riêng cô nếu cô muốn.

-Ông đùa???..

-Không. Tôi chỉ đùa với mầu sắc trên khung vải thôi. Thấy cô đến chỉ ngắm bức hoạ này đã hai hôm nay, tôi đoán cô hẳn thích nó lắm.

-Ông cho tác phẩm của ông như thế, rồi lấy gì để sinh kế?

Nàng không trả lời ngay câu nói của Tiến. Chỉ cắn nhẹ môi và ngập ngừng hỏi ngược lại. Chàng cười, đáp :

-Bán tranh không phải là nghề mưu sinh của tôi. Vả lại, tôi đã thở và đã sống trước khi có tấm tranh này cơ mà, cô không nhớ?

Mặc dầu chàng nói như thế, nàng vẫn lễ phép cám ơn nhưng một mực từ chối không dám nhận. Tiến cũng chẳng cố ép. Rồi nàng lên tiếng ngỏ lời khen về một vài bức tranh của chàng, sau khi thành thật nói là nàng không hiểu nhiều gì hội-hoạ. Tuy nhiên, cách lựa chọn mầu sắc và lối bố cục cảnh vật của Tiến đã ít nhiều gợi lên vài cảm nghĩ hoặc ấn-tượng rõ rệt (cho một người bình thường đi xem tranh như nàng chẳng hạn). Không như lối vẽ tranh lập thể, trừu tượng mà chỉ một số ít người rành về nghệ-thuật mới có thể hiểu nổi.

* Hai người nói chuyện quanh quẩn về tranh ảnh được giây lát. Tiến thấy nàng kín đáo đưa tay nhìn đồng hồ. Chàng thoáng nhìn cánh tay trắng nuốt của nàng. Trông giống như của đứa trẻ vừa thôi sữa. Cổ tay nàng tròn đầy và những ngón búp măng dài thanh tao thật dễ thương. Tiến chợt vẽ trong đầu hình ảnh nàng cầm vài cành hoa marguerite đang từ giữa chừng dốc đi xuống. Sau lưng là dẫy đồi cây xanh và mây trời bao la, mênh mông. Miệng nàng hơi nhoẻn cười nhưng ánh mắt như ẩn khuất một nỗi sầu, xa vắng. Tiến phân vân, chẳng hiểu nguyên do nào đã khiến chàng có sự tưởng-tượng ấy. Và nó mang một ý nghĩa hay sự liên-hệ gì giữa câu chuyện tầm thường của hai người. Trong lúc đang trầm tư, nghĩ ngợi.

Tiến loáng thoáng nghe dường như nàng xin phép phải về để phụ lo chợ búa, cơm nước cho gia đình.

Chàng trả lời tiễn chân một cách lơ đãng, rồi đứng tựa bên khung cửa sổ, nhìn dáng nàng trong tà áo dài trắng với mầu tím của chiếc áo len dần khuất sau rặng thông già cao ngất bên con đường dẫn xuống cầu ông Đạo ở đầu bờ hồ. Tiến đứng đó mơ màng nhớ lại một vài câu chuyện đối thoại với nàng và bức tranh chàng vừa mới tưởng tượng hồi nẫy. Chàng cố moi móc, so sánh những mầu sắc để có thể hoà hợp với cảnh vật và đồng thời đem đến một chủ đề nào đó cho bức hoạ trong trí tưởng. Tiến không nhớ rằng chàng đứng như thế đã bao lâu. Chừng tiếng chuông nhà thờ vang đổ báo hiệu mười hai giờ trưa.

Lúc đó, Tiến mới choàng mình sực nhớ rằng người con gái ra về tự bao giờ. Chàng quên khuấy chưa hề hỏi tên hoặc tìm hiểu một tí gì về người con gái dáng yếu đuối, mảnh khảnh mặc áo len tím có đôi mắt ngây thơ buồn lạ lùng ấy. Tiến thoáng nghĩ về sự gặp gỡ vừa rồi giống như chuyện liêu-trai chí dị ngày xưa chàng vẫn thường mê đọc. Tiến tự nhủ rằng đây không phải là mộng. Người con gái chàng mới gặp có thực và hiện hữu. Hương thơm và mùi tóc của nàng vẫn còn thoang thoảng ở chỗ chàng đang đứng.

Tiếng nói của nàng vẫn còn âm vang trong trí nhớ, trong đầu óc chàng. Nhất là đôi mắt và nụ cười buồn, duyên dáng. Tiến bỗng cảm tưởng như vừa đánh mất, hay để quên một vật gì quý giá mà chàng đã khổ công tìm kiếm, giữ gìn bấy lâu nay. Tiến thầm hy vọng rằng nàng sẽ ghé qua một lần nữa. Dù là hy vọng monh manh, thành khẩn. Hết tuần này Tiến xuống Saigòn, đem theo một số tranh để cùng vài hoạ-sĩ trẻ tuổi khác, dự cuộc triển-lãm ở viện đại-học Minh-Đức. Rồi chàng sẽ trở lại Đà-Lạt, sẽ bồn chồn mong đợi trên suốt chuyến xe đó hành trình gần tám tiếng đồng hồ – nếu từ bây giờ đến ngày đó chàng vẫn không tìm biết được về người con gái chàng mới gặp chưa quen ấy. Hiện tại, Tiến đang mang trong lòng lẫn lộn cái buồn và vui lâng lâng một cách khó tả. Nhìn quanh thấy mọi người đã rời khỏi phòng. Chàng đóng kín và khoá trái cửa, đoạn rảo bước xuống con dốc đi về hướng khu chợ Hoà-Bình. Định bụng sẽ gọi một tô phở lớn vì Tiến cảm thấy khá đói bụng. Từ sáng đến giờ, chàng chỉ có mỗi ly café, không hẳn là ly đầy, chỉ là một ly “đờ-mi” ở quán Domino trên con đường Phan Bội Châu, uống để ấm bụng, để buổi sáng đỡ nhạt miệng có thế thôi. Vừa đi, Tiến vừa cố hình dung lại khuôn mặt người con gái mặc chiếc áo len tím.

Chàng không tài nào nhớ nguyên vẹn được hình ảnh của nàng. Chỉ vài điểm trong trí nhớ chàng đã ghi nhận một cách mường tượng, rời rạc. Như hàm răng nhỏ trắng đều. Mái tóc dài óng ánh. Nụ cười đôn hậu. Ánh mắt thoáng buồn. Câu nói thường thường bắt đầu với chữ “vâng”, “dạ”… Mới đó mà Tiến chợt thấy mong nhớ nàng một cách rất lạ. Tiến tưởng sau cuộc tình tan vỡ từ năm năm về trước, tâm hồn chàng đã trở thành tê dại, nguội lạnh – sẽ chẳng còn sự rung động, ray rứt như thưở bồng bột, mới lớn.

Đôi khi Tiến cũng có những cảm xúc nhẹ nhàng thoảng qua để chàng hứng thú ghi lại trên khung vải. Hay chỉ là sản phẩm của trí tưởng cho cuộc sống thêm chút ý nghĩa và tâm hồn chàng đỡ phải khô cạn.

Nhưng bây giờ, những cảm giác ấy sống thực, rõ rệt và lan man trong mạch máu, trong tim phổi khiến Tiến thấy dường như nắng trưa nay nắng ấm hơn mọi khi. Đường phố bỗng nhộn nhịp người và vui hơn mọi bữa. Tiến hiểu chàng yêu đời chỉ vì hình ảnh của người con gái dịu hiền đến trong buổi sáng chủ- nhật mà chàng vẫn nghĩ chỉ là một ngày bình thường như mọi ngày đã trôi qua trong đời. Lúc đứng trên thang cấp trước cửa lò bành mì Vĩnh-Chấn, nhìn sang bên kia đường khu rạp hát Hoà-Bình, Tiến nhớ đến câu nói đùa của người bạn, anh chàng dân địa-phương ở đây: “Tớ cam đoan, nếu bạn chịu khó đừng trước cửa rạp và đếm người qua lại cái công trường này độ chừng hai, ba ngày. Bạn có thể tự hào rằng đã biết mặt dân ở đây hết ba phần tư rồi đấy!”. Câu nói có tính cách như để diễn tả cái thị-xã nhỏ bé, gần gũi hơn là để chế diễu. Tiến quan niệm như thế và chàng nhận ra rằng niềm hy vọng gặp lại nàng mỗi lúc một lớn dần theo sự tưởng tượng của chàng. Tiến biết chàng có hơi chút lạc quan để tự tạo cho riêng mình một niềm an ủi vui nho nhỏ. Thế cũng chẳng có gì quá đáng. Tiến thầm nhủ. Đau khổ và hạnh phúc chỉ là phương diện tình cảm đã được diễn dịch, thúc đẩy bởi tri-thức. Nếu Tiến chẳng mảy may để ý về sự hiện diện của nàng sáng nay ở phòng triển-lãm, hoặc biết nhưng lại không màng một tí gì về nàng thì mọi việc đã khác hẳn, tâm hồn chàng đã không phải bận rộn đến thế.

Trước khi băng qua đường, Tiến đứng ngó quanh quất. Chàng nhìn những khuôn mặt trầm lặng của người bộ hành. Những đôi má trắng hồng của mấy cô con gái xứ cao-nguyên, và một vài sinh viên sĩ- quan võ bị chững chạc, oai phong trong bộ đồng phục, trông vẻ hớn hở vì cuối tuần được xả trại. Một cách tự kỷ, chàng cho rằng chưa chắc đám người này sẽ cảm thấy sung sướng, hạnh phúc bằng Tiến nếu họ trong một lúc tình cờ nào đó, gặp nàng ở ngoài phố. Đối với họ, nàng cũng chỉ như một cô gái bình thường giống như mọi người con gái khác quanh đây. Ngoại trừ điều duy nhất nếu đó là yêu của nàng.

Nghĩ đến đấy lòng Tiến bỗng se thắt. Chàng vội tìm kiếm hình ảnh, ý tưởng khác để trấn an, khuất lấp cái điều buồn bã vừa mới chớm qua trong đầu. Rồi Tiến tự trách rằng sao chàng lại cho phép cái tư-tưởng phiêu-lưu một cách quá trớn khiến gây chi nhiều khổ sở. Tiến quay nhìn lại quãng đường chàng vừa đi qua. Con đường vẫn ngoan ngoãn nằm dưới hàng thông xanh, dưới mầu nắng vàng ngọt ấm của buổi trưa. Mọi người vẫn bình thản, tiếp tục với đời sống. Cách đó chỉ vài chục bước chàng còn đầy lạc quan, cám ơn cuộc đời nhiều bao dung, mầu nhiệm. Giờ chợt nghe trong lòng dâng lên một nỗi buồn vô cớ.

Mặc dầu Tiến hiểu cái ý tưởng vừa mới xẩy ra chỉ là giả-thuyết, chưa hẳn rằng thật. Nhưng Tiến vẫn bâng quơ nghĩ đến những con đường ở trước mặt. Không biết con đường nào sẽ thực sự đưa chàng tìm thấy hạnh phúc. Suy ngẫm mãi. Tiến không còn câu trả lời hay một lối thoát nào cho cái điều nghi vấn, lẩn quẩn này. Ngoại trừ... Tiến lắc đầu, chàng cười như đã đùa với cái điên rồ vừa thoáng qua. Tiến nghĩ, ngoại trừ chàng chọn một giấc ngủ dài. Một giấc ngủ để quên đi nỗi nhớ và những khắc khoải của trithức, của cuộc đời thật mong manh.

Tuy trong lòng đang xẩy ra những khúc mắc của tình cảm như thế, Tiến vẫn yêu mến thành phố đồi thông sương trắng này như một người tình nhỏ bé, thân thiết. Chàng so sánh cái khung cảnh thơ mộng, thật yên tĩnh, êm đẹp của những ngày vứa qua với cái không khí bụi bậm, ồn ào nóng bức ở Saigòn.

Cuộc đời chàng đáng lẽ thích hợp, gắn bó với nơi này mới phải. Tiến thầm cảm ơn người bạn đã chu đáo, thu xếp cho chàng cuộc triển-lãm ở trên đây. Nhờ đó chàng mới có dịp để biết về Đà-Lạt. Để gặp người con gái thật dịu hiền tựa giấc mộng. Một giấc mộng phù du như đám mây đang thong thả trôi vào lòng chàng. Tiến cảm thấy cái buồn vẩn vơ khi nẫy có lẽ cũng đã theo đám mây đó bay về cuối trời, và nghe sự thanh thản, bình yên trở lại với tâm hồn chàng một cách rất nhẹ. Tiến nhận ra rằng hãy cứ để cuộc đời tự-nhiên đến với chàng. Chấp nhận những gì chàng có ở hiện-tại. Rồi mai này Tiến sẽ không tiếc nuối gì về quá khứ. Vì quá khứ sẽ trở thành kỷ-niệm, như kỷ-niệm sự vô tình gặp gỡ người con gái áo len tím sáng nay. Kỷ-niệm ấy vui hay buồn, có ảnh hưởng sâu đậm vào tâm hồn chàng hay không, mai sau Tiến sẽ biết. Còn bây giờ, Tiến chỉ biết rằng chàng đang yêu cái thành phố lãng mạn này vô cùng.

*** Mãi đến cuối tháng tám Tiến mới trở lại Đà-Lạt. Chàng không ngờ mùa hè trôi qua thật nhanh chóng. Sau vài lần triển-lãm ở Sàigòn, một người bạn học của Tiến bất ngờ được Phủ Quốc-Vụ Khanh Đặc Trách Văn-Hoá chọn gởi làm đại diện sang Đài-Loan dự khoá hội thảo và tu-nghiệp cùng các hoạ-sĩ vùng Đông Nam Á. Lỡ nhận lời mở lớp hội-hoạ Nhập Môn ở Hội-Việt-Mỹ, phần không muốn bỏ qua cơ hội được xuất ngoại may mắn này. Nhân dịp gặp Tiến, hắn nhờ chàng thay chân dậy thế dùm một khoá.

Tiến thấy chàng rảnh rỗi nên sẵn lòng giúp bạn. Kế đó, Tiến lu bù quay cuồng trong vấn đề chuẩn bị tinh thần, bài vở cho cái chức vụ thầy giáo bất đắc dĩ. Thế đã chưa xong. Bạn của Tiến về nước khi khoá học ở Hội-Việt-Mỹ cũng vừa chấm dứt. Hắn lôi chàng ra chơi ngoài Vũng-Tầu bằng được để đãi công lao đã giúp hắn và đồng thời có người để kể về chuyến du-lịch hài ngoại lý thú. Mấy hôm mải dang nắng với gió biển. Thân thể của Tiến lột da từng mảng mỏng, đỏ như tôm luộc, nóng rát làm chàng nhớ đến cái khí hậu mát mẻ, dễ chịu của Đà-Lạt. Vì thế ở chưa được ba hôm Tiến đòi về. Khi xe đến ngả ba Long Khánh – Biên Hoà, chàng chia tay người bạn, trước cặp mắt ngạc nhiên nhìn tò mò của hắn, rồi đón chuyến xe đò cuối cùng của hãng Thống-Nhất để đi Đà-Lạt.

Ngay buổi chiều hôm chàng lên. Sau bữa ăn tối, Tiến bách bộ xuống con đường Duy-Tân ghé thăm Sơn, anh bạn đã cho chàng ở trọ lần trước. Người nhà bảo vừa mới đi vắng, chập tối sẽ về. Trong đầu óc không một mục đích nào rõ rệt, Tiến chào từ giã và đi thơ thẩn vòng lên con dốc Ngọc-Lan. Đứng ngắm nhà Thuỷ-Tạ bên bờ hồ Xuân-Hương và nhìn xuống bến xe đò – từng chiếc đầy bụi đường đất đỏ khi nẫy, giờ đã được chủi rửa sạch sẽ, nằm ngoan ngoãn yên ghỉ để chờ ngày mai lên đường, tiếp tục những chuyến hành-trình dài mệt mỏi. Thốt nhiên, Tiến nẩy ý định có lẽ chàng nên dành một khoảng thời gian nào đó, chẳng làm gì cả, chỉ phiêu-lưu, du lịch đi thăm các tỉnh thành lớn nhỏ từ vĩ-tuyến 17 xuôi Nam. Ít ra phải một lần trong đời. Để sau này nếu có ai nói đến tên của vùng đất nào trên quê hương miền Nam của chàng. Tiến có thể liên tưởng sơ qua hình ảnh, sắc thái đặc biệt của dân chúng địa phương. Chẳng hạn như ngoài những đồi thông, sương lạnh và phong cảnh trữ tình mà nhiều người đều nói về Đà-Lạt, tuy đời sống của thành phố này bề ngoài mang cái vẻ thâm trầm, xa cách, Nhưng nếu ai đã từng ghé ở một thời gian và chú ý đều sẽ thấy lối kiến-trúc nhà cửa, những con đường dốc lên, dốc xuống đã gây thứ ấn tượng thân thiết, gần gũi cho du-khách. Ngoại cảnh cũng dâng tạo trong lòng một chút gì gọi là buông thả, lãng mạn để quên đi những phiền muộn, ưu tư của cuộc đời.

Nghĩ đến sự lãng mạn, đầu óc của Tiến bỗng tuần tự quay chiếu lại hình ảnh một buổi sáng chủ- nhật mấy tháng về trước, khi chàng lên triển lãm tranh ở đây. Tiến ngỡ những ngày dậy học bận rộn vừa qua khiến chàng lãng quên nỗi nhớ về một người con gái đã nhẹ nhàng, êm ái đến ngự trị tâm hồn chàng độ ấy. Nỗi nhớ vẫn chìm sâu trong tiềm thức, thỉnh thoảng khơi dậy như nhắc nhở chàng mối duyên nợ từ tiền-kiếp. Tiến quay gót và nghe lòng bâng khuâng sao xuyến. Chàng chậm bước rời con dốc Ngọc-Lan và đi về đường Trương Công Định. Tiến tìm xuống quán Hương-Xưa, nghĩ trong đầu ghé qua để nghe nhạc, uống tách café và hy vọng được nhìn lại bức tranh kỷ-niệm “buồn và ngồ ngộ…” mà ông chủ tiệm này - hôm cuối cùng cuộc triển lãm – nói mua làm quà sinh-nhật cho người con lớn của ông và đồng thời dùng để trang hoàng, trưng bầy trong quán. Lúc chàng vào buổi tối còn non sớm. Quán thưa người bàn ghế vẫn còn ngay ngắn, trông khá lịch sự, trang nhã. Tiến chọn một chỗ ngồi gần chân cầu thang, ẩn khuất mờ tối như nỗi cô đơn kín đáo của chàng. Đâu đó văng vẳng từ cặp loa tiếng dương-cầm bản Moonlight của Beethoven dịu dàng buồn. Tiến vừa nhìn thấy bức tranh của chàng treo ở bức tường đối diện cao bên cạnh quầy hàng thì ông chủ-tiệm từ trong nhà bước ra. Gặp khách, ông giơ tay chào.

Chừng lúc bước lại gần để hỏi Tiến muốn gọi thức uống. Ông nhìn chàng một thoáng chốc rồi chợt vỗ trán, lên tiếng cười vui vẻ:

-Thảo nào trông quen quen. Vừa thấy mặt tôi nhớ đâu như có gặp hồi nào thì phải. Giờ thì biết rồi, hoạ-sĩ đến uống café hay để nhìn lại tranh cũ đấy?

-Dạ thưa ông cả hai. Chắc ông cũng không nỡ tính thêm tiền chứ ạ.

Ông chủ quán cười thân thiện sau câu nói của chàng:

-Thôi tiền thưởng thức tranh cho hoạ-sĩ ghi sổ. Còn café, trà nước thì lần này tôi đãi. Thế định uống gì để tôi đi lấy?

Tiến ngỏ lời cám ơn và nhờ gọi một ly café phin. Đoạn rất tự nhiên, chàng duỗi chân, ngả lưng dựa hẳn vào thành ghế dáng mỏi mệt. Mới sáng sớm hôm nay, chàng thức dậy còn nghe tiếng sóng biển vang vọng vào thành phố và cái nóng ẩm rát trên da thịt. Giờ đã ở cao-nguyên, ngồi đây giữa đám bàn ghế trầm lặng, đầm ấm dưới ánh đèn vàng mờ ảo và điệu nhạc êm dịu bao quanh. Chưa bao giờ Tiến có một chuyến đi xa thay đổi phong cảnh, khí hậu một cách đột ngột, nhanh chóng đến như vậy. Chàng móc lấy gói thuốc lá dẹp lép từ túi áo. Chỉ còn mỗi điếu thuốc lá cuối cùng cong queo, nhăn nhúm. Tiến vuốt điếu thuốc lại cho ngay ngắn và để dành, đợi thêm một chút nữa, khi cơn thèm lên cao và ly café đã có sẵn.

Chàng nghĩ chừng ấy điếu thuốc hẳn sẽ ngon vô cùng. Rồi Tiến ngồi lặng yên nhìn bức hoạ của chàng, thả hồn tìm lại buổi sáng ngày nào trong căn phòng triển-lãm của thư-viện Đà-Lạt. Tưởng tượng đến dáng dấp sau lưng người con gái đang say mê đứng ngắm tranh. Tiến vẫn thắc mắc tại sao nàng từ chối không nhận khi chàng muốn tặng nàng để làm kỷ-niệm. Vì Tiến nghĩ nếu nàng có bức tranh này, đôi lúc nhìn nó sẽ gợi cho nàng nhớ một chút gì về chàng, về lần hạnh ngộ ấy. Hiện tại, bức tranh treo ở đây, nơi chốn của những kẻ thích ngồi trầm tư mặc tưởng, của những cặp nhân tình hò hẹn. Có lẽ nàng sẽ không còn dịp được nhìn lại nó. Tiến nghĩ, đàn bà con gái mấy ai chịu vào quán café ngồi uống một mình. Hoạ trừ nàng thuộc tuýp nghệ-sĩ bơ đời, coi thiên-hạ như củ khoai. Hoặc giả nàng có người yêu đưa nàng đến đây như đôi tình nhân Tiến vừa thấy họ mở cửa bước vào. Cùng lúc đó, Tiến chợt có cảm giác hình như có ai đang để ý, nhìn chàng. Tiến quay đầu dáo dác tìm kiếm. Ở phía cuối quầy hàng, người con gái xuất hiện từ bao giờ, đang sửa soạn tách muỗng lên khay để đem ra cho khách, nàng ngừng tay đứng nhìn chàng với nụ cười hiền lành nở trên môi. Nụ cười tiềm ẩn trong tâm thức thỉnh thoảng đã làm chàng ray rứt đến mủi lòng mỗi khi chợt nhớ. Tiến ngây người bàng hoàng. Chàng không ngờ được gặp nàng ở đây. Tất cả những ý tưởng, những ước mong chân thành tự thâm tâm, đáy lòng mà chàng định bụng sẽ thố lộ, nói cùng nàng giờ đã biến đâu mất. Tiến đứng dậy ngập ngừng chào khi nàng bưng khay nước đến và lên tiếng thật nhỏ nhẹ:

-Ông mới trở lại Đà-Lạt?

Tiến trả lời, chàng hơi ngạc nhiên:

-Vâng, cũng mới chiều nay thôi. Sao cô đoán hay vậy!

Nàng mỉm cười không đáp, chỉ về hướng bức tranh của chàng và hỏi tiếp:

-Ông ghé đến đây vì nó hay chỉ lên chơi nghỉ hè?

Tiến gật đầu:

-Một phần vì nhớ bức hoạ. Nhưng nói đúng ra, tôi trở lại là vì một người cũng đã yêu và thích cái “buồn và ngồ ngộ” của nó … Tiến bỏ lửng cuối câu. Chàng nhìn sâu vào đôi mắt to, đen láy của nàng để tìm những phản ứng sau khi nàng nghe xong câu nói đó. Trong bóng tối, Tiến thấy đôi mắt thơ ngây loé lên một tia chút vui mừng, cảm động. Rồi nàng vội cúi mặt che dầu vẻ lúng túng, im lặng không nói. Tiến đoán nàng e thẹn nên lảng sang chuyện khác:

-Tôi thắc mắc một điều rất tầm thường, chắc cô không nỡ từ chối nếu tôi muốn biết tên?

-Thưa ông em tên Vy, Tường-Vy với y dài. Ông muốn gọi tên Vy trống không cũng được.

Nàng trả lời một cách ngượng ngập.

-Riêng tôi tên Tiến. Tôi chưa già lắm đâu, mong Tường-Vy đừng gọi tôi bằng ông, mà cũng đừng “dạ thưa” nữa nhé! Nghe có vẻ “gần đất xa trời” quá!

-Dạ thôi!

Tiến cười dòn sau câu trả lời của nàng:

-Đấy! mới đó lại dạ thưa nữa rồi. Tường-Vy chóng quên ghê. Đùa thế chứ, thôi để Tường-Vy trông hàng, dịp khác tôi muốn gặp nói chuyện với Tường-Vy được không?

Sau giây phút ngần ngừ, suy nghĩ. Tường-Vy gật đầu. Nàng bảo chiều mai Tiến có thể đến đón sau giờ nàng học dương cầm ở một tư-gia trên con đường Phạm Phú Thứ. Chàng bằng lòng nhận lời và chưa hề cảm thấy sung sướng, hạnh phúc như buổi tối hôm ấy. Nỗi vui sướng tràn ngập làm chàng bỗng mơ tưởng. Tiến mơ tưởng một đời sống thật bình thường, nhưng luôn luôn phải có Tường-Vy bên cạnh cuộc đời chàng. Tiến mường tượng rằng có lẽ nàng là lẽ sống của chàng từ ngày hai người vô tình gặp gỡ.

Tâm hồn chàng không còn nguyên vẹn như thuở chưa biết nàng. Tiến ngồi yên như thế, uống tách café đem đậm mà vẫn thấy vị ngọt bùi trong cuống họng, tự hỏi không biết cuộc đời chàng sẽ ra sao nếu không có sự tái-ngẫu, tình cờ này. Và trong giây phút quay trở lại với thực-tế, Tiến nhận thấy đời chàng như bắt đầu rẽ vào một khúc quanh của giòng sông mà tương-lai chàng thử để mặc cho nó trôi theo giòng nước định mệnh, của tiền định *** Tiến vòng tay nhẹ nhàng ôm lấy Tường-Vy, âu yếm kéo nàng ngả vào vai chàng. Tường-Vy không chút phản ứng, mềm nhũn người ngồi dựa sát bên cạnh Tiến như con mèo nhỏ ngoan ngoãn. Chàng lùa những ngón tay đừa nghịch với mái tóc mềm, óng ả như tơ lụa của nàng và thì thầm:

-Nghĩ gì vậy hở nhỏ?

Tường-Vy mỉm cười:

-Em chợt nhớ hình ảnh ngày đầu tiên hẹn nhau. Trông dáng dấp anh từ đàng xa, tay cầm tờ báo cứ như ông công-chức đang đến sở chứ không phải là một chàng đang đến hẹn với bồ. Bộ anh thích đọc báo lắm hở?

-Không thích cũng phải đọc nhỏ à! Dạo này tin tức chiến-sự nghe bi đát quá. Lại thêm chuyện quốc-hội Hoa-Kỳ vẫn chần chờ chưa chịu chấp thuận ngân sách viện-trợ cho nước mình. Anh nghe nhiều người kết luận là tụi Mỹ sẽ phủi tay, buông xuôi… Mà thôi, nhắc chi chuyện đó làm gì. Nhỏ chê anh “già” vậy chứ hôm sau cuối tuần rủ đi chơi Thung Lũng Tình Yêu sao lại bằng lòng?

-Tại thấy anh hiền lành, nói chuyện có duyên – không như mấy tên con trai trong lớp thành thử người ta mới nhận lời. Con nhỏ Quyên bạn em nói nên coi chừng, đề phòng dân Bắc kỳ cái miệng tán gái dẻo quẹo, ngọt như mía lùi và hay bắt cá hai tay!!!

-Vậy chứ bạn của nhỏ người gì? Tiến cười.

-Gia đình nhỏ Quyên cũng Bắc kỳ “nhập cảng” như anh. Nó bảo, thấy mấy ông anh cua đào, nói sạo một cây cho nên nó đâm ngán luôn con trai Bắc.

Tiến làm bộ gật gù đắc ý:

-Điều đó càng chứng tỏ không dễ gì kiếm được một người như anh. Chắc kiếp trước em nhờ có chân tu hay sao nên kiếp này may mắn… Tường-Vy nghe nói quay đầu cắn nhẹ vai chàng:

-Thôi đi ông! nói ngược ngạo vậy mà nghe được. Đã vậy còn tự quảng cáo, khen mình mà không biết xấu hổ!

Tiến chẳng trả lời. Chàng kéo nhẹ Tường-Vy lại gần và cúi xuống hôn lên đôi môi mọng, chúm chím hình trái tim của nàng. Tường-Vy ngửa mặt, đôi mắt khép kín đón nhận nụ hôn chàng nồng cháy như một luồng điện truyền qua cơ thể khiến đôi vai nàng khẽ rung động, ngây ngất. Tiến thoáng nhìn rồi mê mải, ngắm đôi lông mi dài và đậm của Tường-Vy mà tưởng tượng đến tương lai nàng mãi mãi hoàn toàn thuộc về chàng. Tiến cảm thấy cuộc tình của hai người dường như đã được tiền-định, xếp đặt do bàn tay mầu nhiệm của đấng tạo-hoá. Không thể nào kết hợp bởi sự cố gắng, ép buộc của con người. Trong thâm tâm, chàng thành thực công nhận trên cõi đời này chẳng thiếu gì bao vẻ thuỳ mị, ngoan hiền như Tường-Vy – có thể còn hơn thế nữa. Nhưng đối với Tiến, nàng cũng đủ biểu tượng cho cả một thiên- đàng mơ ước hạnh phúc nhỏ bé của chàng. Ở nàng, chàng linh cảm có một sự ràng buộc, gắn bó nào đó mà chàng không thể tìm kiếm ở bất cứ người con gái nào khác. Có thể tình yêu đã làm Tiến chủ quan.

Riêng Tường-Vy, sau vài lần hẹn hò và hiểu rõ tình cảm của Tiến đối với nàng; trong một buổi chiều đi dạo quanh những lối mòn lên viện Đại-Học Đà-Lạt. Khi Tiến thắc mắc hỏi cảm tưởng của Tường-Vy về chàng qua ngày đầu gặp gỡ. Nàng ngập ngường bảo dáng nghệ-sĩ và đôi mắt đa tình của Tiến đã gieo nỗi vương vấn, xao xuyến mà xưa nay lòng nàng chưa bao giờ từng trải. Nhất là lúc nói chuyện với nàng ở phòng triển lãm mà chàng mải mơ mộng, suy nghĩ đâu đâu khiến Tường-Vy hơi cảm thấy chạm tự ái lẫn với sự tò mò, nhơ nhớ. Rồi nhân ngày sinh-nhật thứ mười tàm của Tường-Vy, bố của Tường-Vy vì cưng cô con gái lớn, hỏi món quà gì nàng thích, Tường-Vy ngỡ Tiến sau lần triển lãm tranh ấy sẽ chẳng bao giờ trở lại, và quán café nhà nàng cũng cần một bức tranh treo. Nàng lưu luyến bức hoạ ấy quá đỗi vì ít nhiều, nó cũng đã dường như phảng phất một tâm sự phiền muộn nào đó mà chàng muốn gói ghém, nên chẳng ngần ngại viện cớ xin bố để mua cho nàng. Nghe Tường-Vy nói, Tiến không ngờ nàng có một tâm hồn lãng mạn đến như vậy. Tuy ở Đà-Lạt mới đôi ba tháng, Tiến cho là có lẽ khung cảnh, khí hậu làm tâm tình con người cởi mở, dễ trở nên xúc cảm. Tiến nhớ lại lúc đi bộ dưới những con đường hai hàng thông rũ lá, êm ả tĩnh mịch, hay ngồi trên ngọn đồi nhìn xuống thung lũng cỏ cây xanh mát và mặt nước hồ nên thơ, phẳng lặng. Không gian chừng như cô đọng, trầm lặng khiến cho Tiến có thể thốt lên những ý tưởng của chàng tự đáy lòng, và thì thầm những lời dịu dàng với nàng mà không cần phải hét tướng lên cho mọi người nghe thấy như ở Saigòn; xó xỉnh nào cũng đông người, ồn ào như một phiên chợ. Cái mát lạnh ở đây cũng thế, dễ làm người ta gần lại nhau hơn để tìm chút ấm áp, sưởi lòng nhau. Tường-Vy vẫn thường chia sẻ những ước mơ mai sau của nàng trong một vài lần đi chơi với nàng. Ước mơ nàng bình dị, ngọt ngào như giòng nước suối. Tường-Vy hy vọng sẽ trở thành cô giáo; nàng thích được dậy học mỗi ngày nửa buổi, còn nửa buổi để lo cơm nước cho chồng con. Nếu hai người lấy nhau, Tiến tin chắc vậy, nàng muốn chàng tiếp tục sáng tác và mở một phòng triển lãm ở thành phố nhỏ bé, hiền hoà này. Còn nhiều mơ ước khác mà Tiến thỉnh thoảng, dùng những đoạn kết của những câu truyện cổ-tích thần tiên như: “…. và từ đó, hai người ăn ở, sống hạnh phúc bên nhau cho đến ngày răng long đầu bạc …” để giỡn đùa phụ hoạ với nàng.

*** Cả tuần nay chẳng được tin tức của Tường-Vy và gia đình nàng khiến Tiến ra vào bồn chồn, lo âu. Chàng thấy báo chí loan tải vụ dân chúng Cam Ranh, Nha Trang đã rục rịch di tản từ tuần lễ trước. Số phận của Đà-Lạt và tỉnh Lâm-Đồng có lẽ cũng chỉ theo sau một, vài ngày. Tiến hy vọng gia đình Tường-Vy sẽ cùng đám người đào thoát xuôi nam tìm đường về Sàigon. Rồi tin thành phố Đà-Lạt bỏ ngỏ cho Cộng Sản và những chuyện thương tâm xẩy ra trên quốc lộ máu, kinh hoàng số 19 đến với mọi người như một biến cố đã chờ đợi sẵn, không tránh khỏi. Tiến cố tìm những chuyện lặt vặt chẳng hạn như ghé thư-viện ĐắcLộ, Vạn-Hạnh ở gần nhà để đọc sách, nghiền ngẫm, hoặc la cà tới những phòng triển lãm, các tiệm sách báo cũ ở vỉa hè Lê Lợi… để đầu óc chàng đỡ hoang mang, rối bời. Mặc dù đã tìm đủ mọi cách, hình ảnh của Tường-Vy vẫn lẩn quẩn, chập chờn ngay cả trong giấc ngủ ngắn đầy mộng mị của chàng. Tiến lo đến nỗi chàng gầy đi hẳn. Tiến kiếm tìm, mong ngóng bất cứ người quen nào từ thành phố cao-nguyên ấy vừa đặt chân đến Sàigon để hỏi thăm tin tức về Tường-Vy. Có lúc Tiến ví họ như những chiếc thuyền phao bé nhỏ để chàng cố bám víu, lây lất tìm lại nửa mảnh hồn của chàng còn đang bơ vơ, lưu lạc không biết trôi giạt phương trời nào. Có người bảo rằng gặp gia đình nàng ở Bình-Tuy đang tìm cách xuống Vũng Tầu. Kẻ nói cả nhà Tường-Vy còn kẹt lại Đà-Lạt. Tiến nghe và chỉ thấy lòng thêm hoang mang, khổ sở. Chàng nghĩ đến câu nói của người xưa “Nhất nhật bất kiến, tam thu hề”. Một ngày không gặp tưởng những đã ba mùa thu. Quả không sai lầm trong cái trường hợp của Tiến. Xa cách Tường-Vy cũng gần hai tháng nay, từ khi Tiến về Sàiogn ăn tết cùng gia đình. Mỗi ngày trôi qua như cả một thiên thu đối với chàng, nhất là trong hoàn cảnh, biến cố trầm trọng như hiện tại. Tin tức chiến-sự mỗi ngày một trở nên dồn dập, đến gần với thành phố. Mặt trận miền đông ở Long Khánh bắt đầu có sự áp lực từ phía Cộng Sản. Sư đoàn 18 với những chiến sĩ bộ binh gan lì, gườm súng sẵn sàng quyết tử, sẽ không nhượng bộ thêm một tấc đất. Giá vàng, giá đô la lên vùn vụt từng ngày, từng giờ. Ngoài đường chỉ nghe dư luận bàn tán chuyện mua bàn tìm lối ra ngoại quốc. Tiến nhớ mông lung chuyện bố mẹ kể về những ngày trên con tầu “há mồm” lên đênh từ Bắc di cư vào Nam của năm 1954-1955. Ngày ấy chàng vừa mới ra đời để có thể hiểu những gì đã xẩy đến. Bố mẹ chàng lo âu ra mặt. Hai người còn kể cho chàng về những thủ đoạn, những màn chụp mũ, đầu tố vô lương tâm. Đã một lần lìa quê cha đất tổ để tìm mảnh đất tự do, gây dựng lại mái ấm gia đình, bây giờ viễn tượng tương lai ở trước mặt bỗng trở thành đen tối, u ám thêm một lần nữa. Tiến thấy bố chàng trầm tư ra vào thở dài, uất nghẹn. Tiến không biết chàng còn có thể chờ đợi Tường-Vy được bao lâu. Nhóm liên-minh Hoà Hợp Hoà Giải muốn đưa cựu tướng Dương Văn Minh lên thay ông Thiệu để thương thuyết, nói chuyện với Mặt Trận Giải Phóng. Nhiều người vẫn còn ngây thơ, hy vọng tin tưởng vào chiêu bài hoà bình. Tiến thấy tình thế mỗi ngày một tuyệt vọng.

Một người Mỹ chàng quen biết dậy Anh-văn ở Hội Việt-Mỹ, tình cờ gặp Tiến, ngỏ ý hỏi gia đình chàng muốn rời thoát cùng hắn. Tiến phân vân, lưỡng lự giữa những ý nghĩ khinh bỉ dân tộc Mỹ đã dùng quê hương chàng như một con cờ trên thế giới, rồi phủi tay, bỏ mặc dân tộc chàng giữa cơn nguy biến và đồng thời cảm kích trước lời giúp đỡ chân thành của hắn. Có lẽ hiểu được phần nào tâm trạng của Tiến lúc bấy giờ, hắn vội dúi cho chàng tờ giấy ghi rõ giờ giấc và điểm hẹn để xuống tầu, rồi khéo léo từ biệt.

Tiến cầm trên tay mảnh giấy mà lòng chàng chỉ nghĩ về Tường-Vy. Cho dù ở bất cứ chân trời đất nước nào đi chăng nữa, thiếu bóng dáng nàng thì cuộc đời chàng cũng trở thành khô cạn, vô nghĩa. Tiến thắc mắc giờ này Tường-Vy đang ở đâu, có còn lo nghĩ nhiều gì về chàng. Trong là thư cuối cùng nàng gởi cách đây một tháng, hôm sau tết. Tường-Vy tâm sự: “Suốt ngày em chỉ ở nhà dạo đàn, nghe nhạc và nhớ anh. Đường phố vắng anh bỗng buồn chi lạ. Em cũng chẳng ló ra ngoài vì không muốn những chốn cũ mình ghé qua gợi lại hình ảnh, kỷ-niệm ngày còn bên nhau. Anh sao hay có cái tật hôn ẩu em ghét tệ.

Bây giờ thì lại …”. Càng nghĩ Tiến càng nhớ nàng điên cuồng. Đêm chàng ngủ những giấc mơ ngắn chập chờn, mong trời mau sáng để lân la đến các trung-tâm đón người di tản, tị-nạn hòng mong gặp lại nàng.

Lệnh giới-nghiêm bẩy giờ tối ban hành khiến ngày càng thâu ngắn. Vật giá càng leo thang một cách khủng khiếp chưa từng thấy. Mọi người đâm hốt hoảng. Nỗi lo sợ hiện trên những khuôn mặt của thành phố. Bố mẹ của Tiến hối thúc chàng tìm đường bảo vệ lấy thân. Chừng tình thế yên ổn trở về cũng chẳng muộn. Tiến cố nấn ná, thầm cầu mong Tường-Vy xuất hiện như một phép mầu, để cùng chàng dắt tay nhau ra đi. Thành phố Sàigon bây giờ có những triệu chứng trở thành bỏ ngỏ vô chủ, hỗn loạn. Từng đoàn người lũ lượt kéo nhau ra Tân Cảng, xuống những bến tầu ghe thuyền đã chuẩn bị, chờ đợi. Tiến vẫn kiên nhẫn.

Cho đến ngày đoàn người "chiến thắng", mặt mày xanh xao lái xe tăng dẫm nát cổng tường dinh ĐộcLập.

Tiến biết chàng không thể chờ đợi lâu hơn được nữa. Mẹ chàng khuyên lơn rằng chàng hãy yên tâm mà đi. Hai người viện cớ tuổi đã già, vả lại sẽ liên lạc ngay với chàng khi nghe bất cứ tin tức gì của Tường-Vy. Hy vọng cuối cùng chàng nghĩ trong đầu là gia đình nàng cũng sẽ vượt biên, tìm đường tị-nạn sau khi nghe lệnh buông súng đầu hàng của vị nguyên-thủ quốc-gia một cách bất đắc dĩ. Tiến đi cùng người bạn phi công lái chiếc trực thăng, bốc cả gia đình hắn nhắm hướng hải-phận quốc tế. Lúc quay đầu nhìn lại thành phố thân yêu vẫn từng được mệnh danh là hòn ngọc Viễn-Đông, bây giờ bỗng trở thành khói lửa, hỗn loạn, chia tan. Những mái nhà, dinh thự, phố xá dường như thu hẹp, nhỏ dần theo ánh mắt cố ngoái nhìn của mọi người đang ngồi im lặng trong lòng con tầu từ từ cất cánh, nhẹ bỗng.

Một ý tưởng chợt thoáng qua trong đầu là Tiến sẽ không còn bao giờ còn gặp mặt bố mẹ chàng và mãi 10 mãi xa lìa quê-hương cùng Tường-Vy yêu dấu khiến Tiến thấy tê tái, chết điếng cả hồn. Chàng thoáng nghe tiếng vài người rấm rức, sụt sịt khóc khi chiếc trực thăng vừa ra đến cửa biển. Trong giây phút, tất cả những kỷ-niệm của tuổi thơ ấu, sinh sống ở thành phố của mọi người sẽ bỏ lại phía sau lưng. Nhìn chân trời bao la và biển rộng mênh mông, Tiến có cảm tưởng đời chàng như con thuyền trôi dạt không biết đâu là bến bờ. Những mơ ước ngày trước cùng Tường-Vy chỉ còn như ngọn nến nhỏ heo hắt trong đầu óc ngây dại của Tiến. Chàng chợt nghe một tiếng nổ ầm và sau đó cả con tầu rung chuyển, chao đảo mất trớn. Người bạn phi công từ lúc bắt đầu cuộc hành trình vẫn im lặng, bình tĩnh bỗng hét lên, giọng lạc hẳn:

- Thôi chết mẹ cả lũ! tầu bị đạn ở cánh quạt rồi Tiến ơi!!!

Hắn cố giữ con tầu thăng bằng quay đầu trở vào bờ. Khói đen từ động cơ bên trên theo gió biển lùa vô sàn tầu khiến tất cả mọi người mù mịt, hoàng sợ oà khóc. Tiến cảm thấy đau nhói nơi bả vai, chàng đưa tay rờ mới biết mình đã bị một mảnh kim loại, chẳng biết đâm vào người từ lúc nào, máu ra ướt cánh tay áo. Chiếc trực thăng gẫy cánh quạt và bị hỏng máy mất cao độ mỗi lúc một thấp dần, nghiêng ngả như con diều đứt giây. Bờ biển vẫn còn xa đến một khoảng cách ngoài tầm nhìn của con mắt. Tiến đã sẵn yếu trong người nay lại bị thương, mất nhiều máu khiến chàng thiếp vào cơn mê man, nửa tỉnh nửa sảng. Tiến mơ hồ thấy Tường-Vy mặc chiếc áo dài trắng, áo len nàng cũng mầu trắng. Tay cầm bó hoa cúc-trắng từ trên ngọn đồi sương khói mớ ảo đi xuống vẫy gọi chàng. Ánh mắt u uẩn buồn của nàng nhìn Tiến như trách móc sao nỡ ra đi một mình không đem nàng theo. Nàng thốt lên chỉ bấy nhiêu rồi cúi đầu lặng im. Tiến ôm lấy vai nàng vỗ về, bảo rằng chàng cũng khổ sở mong đợi tin tức của Tường-Vy, chàng hỏi nàng ở đâu sao không nhắn cho chàng biết. Tường-Vy vẫn yên lặng hơi ngửa đầu cho chàng thấy vết bầm tím nơi cổ nàng. Tiến quỳ gục xuống chân nàng đau đớn. Chàng chưa kịp nói gì với nàng thì TườngVy đã quay người bước đi, Tiến nghe chừng như đâu đây có ai lay gọi tên chàng. Tiến hé mắt mở. Chàng chỉ kịp thấy mặt nước biển xanh thẫm rồi cả con tầu bùng nổ, tan vỡ như xác pháo. Trong giây phút cuối cùng đó, chàng bỗng nghĩ về những mùa xuân không bao giờ đến như đã mơ ước, và chàng rướn ngừơi lên khẽ gọi “Tường-Vy ơi chờ anh với” trước khi chàng cảm thấy cái mát lạnh và mùi vị mặn của biển sâu ôm cuốn lấy chàng.

SVT 1987

Về đầu trang


Những Nẻo Đường Quê Hương - Bà Rịa

Trần Văn Sanh

Sáng thứ bẩy, sau khi ăn điểm tâm và chờ văn phòng hãng máy bay mở cửa để đổi lại chuyến bay, ở lại thêm ít nhất hơn một tháng nữa. Xong xuôi, hai vợ chồng đeo ba lô lên đường, trực chỉ hướng Vũng Tầu, nhưng không đến đó mà tạt ngang vào tỉnh Bà Rịa, đi hướng ngã Cát Lái - băng qua sông Sàigòn bằng chuyến phà ngang - để rút ngắn đoạn đường khoảng 30 - 35 phút, thay vì lấy quốc lộ 1 (Xa Lộ Hà Nội) rồi vòng rẽ sang QL-51.

Đây không phải là lần đầu chúng tôi đến Bà Rịa, mà là lần thứ tư, thứ năm gì đó; nào là chuyến ghé thăm Hồ Tràm, suối nước nóng Bình Châu, tắm biển Long Hải, ghé thăm người quen và ngủ lại ở Long Điền (quê hương của nữ anh hùng Võ Thị Sáu), v.v... Chuyến đi lần này, là do lời mời của một cô giáo dậy cấp 3 (từ đệ Tam lên đệ Nhất, nay gọi là lớp 10 - 12) rủ về quê của cô ở xã Ngãi Giao, huyện Châu Đức thuộc tỉnh Bà Rịa. Ai chứ, được rủ về trải nghiệm cảnh nhà quê, sống những ngày mộc mạc bình dị, ít khi nào mà tôi lại "nỡ lòng" từ chối.

Ngược lại, cô giáo này vừa mới được gia đình bảo lãnh, sắp sửa được đi Mỹ cho nên lòng cô rất vui, hồi hộp từng ngày để được sang cái xứ "thiên đàng ở trần gian"; để được nếm mùi vị tự do, không khí "hoàn toàn" trong lành và nhiều cơ hội để tiến thân, làm giầu. Bởi vậy, khi nghe nói mai sau tôi thích về đây hưởng già, cô giáo rất ngạc nhiên và thắc mắc, rằng tại sao lại có kẻ tính chuyện ngược đời như thế !

Một điều căn bản mà cô cô giáo không nhận ra là, khi cô đã từng sống trong một xã hội hơn 40 năm, cho nên cô mới biết rõ bộ mặt thật của nó, và cũng chính vì thế mà cô một, hai nhất quyết rời bỏ, ra đi. Tôi cũng thế thôi, nào có khác gì. Khác chăng là ở đất nước này, hầu hết tất cả người dân đều hiểu thế nào thật sự là Chủ Nghĩa Cộng Sản, chi có một số it người không biết - mà đa số trong nhóm đó nhiều khi họ hiểu, nhưng đang ở trong cái thế "lỡ phóng lao phải theo lao". Ngược lại, ở một nước có nền văn hóa cao, mà chỉ có một thiểu số ở Hoa Kỳ mới hiểu rõ, trong vòng hơn 3 thập niên nay, chẳng có cái gì chính thực gọi là "Tư Bản" hoặc "Tự Do Mậu Dịch", khi mọi người mua bán với đồng tiền in ra như thứ hàng mã.

Nói một cách ví von, một đàn bò ở trong một trang trại - thí dụ như có chu vi là một cây số vuông - có lẽ đa số , ít nhiều gì có con biết mình đang tù túng, bị rào kín trong chuồng rộng lớn; chứ cỡ như đối với cả ngàn tổ kiến, chúng lại thấy đó là một khung trời "bao la", đầy tự do. Quan trọng là biết nhìn từ khía cạnh nào và có tầm nhìn xa, biết đâu là thật, đâu là ảo tưởng.

Trở lại Bà Rịa, vợ chồng tôi đến nơi thì trời vừa mới quá trưa, nhưng vì mấy tuần nay thời tiết ở vùng Đông Nam Á đang ở trong tình trạng áp xuất thấp, do một cơn bão lớn ghé ngang Việt-Nam trước khi tập trung và tàn phá bên Phi Luật Tân, cho nên trời đã chạng vạng, xẩm tối. Gia đình của cô giáo có một mảnh vườn rộng chừng vài sào (một sào là 1 ngàn mét vuông), trồng tiêu và cà phê là sản phẩm chính, ngoài ra còn nào là những bụi dứa (thơm), cây bưởi, chuối, đu đủ, cây nha đam và những loại vừa là rau vừa là thuốc mọc quanh nhà; quanh quẩn là đàn gà thả rông, đi khắp vườn bưới đất tìm thức ăn cả ngày. Không ai biết đàn gà có chính xác là bao nhiêu con, mà tôi đoán phỏng chừng trên dưới cũng khoảng 30, kể cả đám gà con mà chiều nay đã thấy 1 trong năm chú gà con đáng thương đang nằm dẫy chết - đúng theo luật đào thải, khỏe sống, yếu chết. M

ỗi lần cô giáo làm bếp, đàn gà quen thói, tụ tập quanh quẩn để chờ những mảnh vụn từ rau cỏ, thịt , cá thẩy ra sau vườn thay vì đổ vào thùng rác; chỉ trong chốc lát, mọi thứ đã được dọn dẹp sạch sẽ bởi những cái mỏ gà háu đói. Những thứ chúng nó chê thì sẽ bị phân hủy, trở thành chất phân bón cho cây cỏ trồng trong vườn.

Quanh đây, dân chúng sống chủ yếu nhờ vào giống cây tiêu, mà để phụ vào cuộc sống hàng ngày, họ còn nuôi heo, nuôi dê bán dần, bù đắp vào khoảng chi tiêu, đợi cho tới mùa thu hoạch tiêu và cà phê vào khoảng mỗi cuối năm. Thập niên về trước, đa số người dân nuôi bò, thường thả đi rong để tự nó kiếm cỏ gặm; dần dần dân cư phá triển, nhà cửa mọc lên như nấm, cộng vào đó là thuốc diệt cỏ dại thường hay xịt bừa bãi, vô phúc cho con bò nào ăn phải đám cỏ vừa mới xịt thuốc, mấy hôm sau con bò bỗng lăn đùng ra chết, thế là toi đi một phần nào tài sản, vốn liếng khá lớn của một gia đình đã sẵn nghèo, nay lại càng nghèo thêm.

Cây bông gòn đã trồng trước 1 năm, sau đó nhánh cây được chặt bỏ để cây tiêu có chỗ leo lên, lá cây bông gòn sau đó trở thành món ăn khoái khẩu của bầy dê.

Một trong những hình ảnh mà tôi thích ghi nhận, chụp để lưu niệm đó là cảnh vật và những hoạt động trong buổi sang sớm tinh sương; trong đó ấn tượng nhất là cảnh những phụ huynh chở hay dắt con em đi đến trường học là điều làm tôi thích thú ; vì đó chứa đựng cả một bầu trời kỷ niệm của tuổi thơ, được bố hay mẹ dẫn đến trường, như hình ảnh người cha cầm chiếc ba lô sách vở, đi sau đứa con gái đang tung tăng đến ngôi trường làng gần đó. Cả một bầu trời êm đềm, hạnh phúc và không gian riêng tư của hai cha con mà tôi nghĩ, nếu không ghi lại thì những khoảng khắc này, kỷ niệm đẹp rồi cũng sẽ trôi nhanh, tan vào dĩ vãng theo giòng thời gian.

Một bữa cơm trưa mời khách tiêu biểu ở vùng quê.

Theo tôi, ở cái tuổi già xế bóng, cao lương mỹ vị sẽ càng nhanh chóng đưa mình xuống lỗ, nhưng cũng không ít người cho rằng "thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt", nghĩa là ăn uống cho đã miệng, mai tính sau. Cơm nước ở nhà quê, như bạn thấy ở tấm hình trên, cũng nào có thua kém gì, cứ để bụng đói thêm một chút thì cái quái gì cũng thấy ngon. Đã vậy, rau sạch không bị phân bón, xịt thuốc; cá thì tươi nguyên mới bắt ngoài đồng, hay vừa đem từ biển Long Hải về. Chỉ có thế thôi mà ăn no căng diều, chả sợ đau bụng gì ráo như ra ngoài ăn cơm hàng cháo chợ. Đã thế, lá chè xanh hái từ ngoài vườn, rửa sạch đun nước sôi đổ vào - gọi là hãm trà/chè - ăn cơm xong có một tách trà nóng, uống ngon đáo để mà còn tăng thêm phần trợ lực, chống viêm gan, lão hóa. Mỗi lần về Việt-Nam, thú vui buổi sáng của tôi là pha một ấm trà xanh như thế, và trong lúc đợi trà ngâm nước sôi, tôi thường hay pha một ly cà phê sữa đá, mở ăn gói xôi, ngồi đọc báo xem tin tức chuyện chó cán xe, xe cắn chó...toàn chuyện ruồi bu cho qua ngày. Trời càng nóng mà uống một ly trà xanh vào, chập sau sẽ thấy mát cùng với cái vị ngọt nhẹ vương nơi cuống họng. Tôi ghiền uống trà xanh tươi từ hồi còn niên thiếu, chả trách nào bị mang tiếng là "ông cụ non" thì cũng đúng thôi.

Chiều hôm sau, cô giáo đưa vợ chồng tôi đi thăm Nghĩa Trang dành riêng cho thai nhi, những bào thai chưa kịp chào đời là đã bị ruồng bỏ, phá thai trước khi trở thành người của dương thế. Chiều cuối tháng mười và dưới một bầu trời mây xám, ảm đạm; ánh sáng cuối cùng của buổi chiều cũng nhanh lịm dần. Chúng tôi vừa kịp đốt lên ba bó nhang thì trời vừa xập tối, khiến không gian khu nghĩa trang bỗng trở thành lạnh lẽo, cô tịch.

Bởi thế cho nên chúng tôi phải nhanh tay, chia ra mỗi người một bó, kẻo trời vừa tối và sợ nhang lại chóng tàn. Đi dọc theo những dẫy bia đá lớn hơn chiếc hộp đựng giầy chút xíu, tôi vừa cắm nhang vừa lẩm bẩm, nói chuyện với linh hồn mỗi đứa, bảo "các cháu cũng chớ buồn, luyến tiếc, hay hờn giận cha mẹ, cuộc đời này cũng chẳng có gì để các cháu bận tâm, hãy trở về và mãi mãi sống trong vòng tay yêu thương của thượng đế, của thiên chúa, đó mới là nơi yên vui vĩnh cửu". Khi cảm thấy bắt đầu không đủ nhang cho những ngôi mộ còn lại, tôi cắm nhang ở giữa hai bia đá, cũng thì thầm: "thôi các cháu chịu khó chia nhau đóm hương thắp lên này với tấm lòng của ông nhá." Xong đâu đấy, cả ba chúng tôi đứng làm dấu, đọc vài bài kinh để cầu xin ơn trên thương xót và che chở cho những linh hồn bé nhỏ đáng thương này, rồi chúng tôi lặng lẽ ra về khi bóng tối đã hoàn toàn phủ kín cảnh vật xung quanh. Trên đường đi ra, cô giáo chỉ tay cho chúng tôi biết, phía cuối nghĩa trang có một phòng gắn máy lạnh, ướp xác những thai nhi vừa mới bỏ, để khi nào nhà thờ gom được đủ tiền xây mộ cho các cháu, và phí tổn đâu như gần 2 triệu rưỡi cho mỗi ngôi mộ bé tí hon này.

Chẳng biết ở bên Mỹ có những nghĩa trang dành riêng cho thai nhi như thế này...

Trên đường về, tôi miên man nghĩ đến sự suy đồi luân lý trong xã hội, của nhân loại - không những chỉ riêng ở Việt-Nam mà hầu như khắp nơi trên thế giới, trong đó cái thế giới "thiên đàng" mà tôi vừa tạm rời xa hơn mấy tháng nay. Trong khi ở Việt-Nam nhiều thiếu nữ, đàn bà vì hoàn cảnh này nọ nên đã phải chịu phá thai, rồi cả đời mang một vết thương đau sâu kín tận đáy lòng, thì chuyện phá thai trong xã hội Mỹ lại là một kỹ nghệ trị giá bạc tỷ đô la, mà mới đây nhờ người ta bí mật làm những phiên phóng sự, lột trần những biện pháp không những che dấu việc làm phi pháp, vô lương tâm, đã thế còn thả cửa tiêu tiền thuế của người dân đóng góp.

Nếu bạn đã từng thấy hình ảnh một bào thai 5 hoặc 6, 7 tháng vẫn còn sống khi lôi ra từ bụng mẹ, nhăn mặt đau đớn khi bác sĩ hoặc y tá dùng dao kéo bén nhọn - cắt ra từng bộ phận của nó - vì đã có người đặt mua từ trước; nhìn cánh tay, bàn chân tí hon bị co giật vì đau đớn, nếu không một chút nhói tim, đau lòng thì hẳn chắc phải là quỷ hay kẻ không còn chút lương tri, linh hồn.

Tôi để lại đây vài cái trang mạng để bạn truy cứu và đi tìm sự thật. Tôi vẫn thường nghĩ, những lỗi lầm của người dại dột, ngu dốt thì vẫn còn đáng tha thứ, thương hại; chứ những người sống trong một xã hội gọi là cực kỳ văn minh, tân tiến - vẫn nhẫn tâm, thờ ơ để những chuyện tàn nhẫn, trái luân lý như thế còn tiếp tục xẩy ra thì chẳng đáng còn gì gọi là chút tha thứ. Abortion is big business: Nearly $1 billion a year generated from murdering human babies:
http://www.naturalnews.com/051094_abortion_Planned_Parenthood_criminal_nonprofits.html
http://www.centerformedicalprogress.org
http://www.naturalnews.com/051665_Planned_Parenthood_abortion_organ_sales.html

Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động...(Diễm Xưa - TCS) Sáng hôm sau hai vợ chồng tôi chào tạm biệt gia đình cô giáo để trở về Sàigòn. Mặc dù đã lo xa từ trước là "Sàigòn sáng nắng chiều mưa", hy vọng là khi về đến nơi, hay gần đến nơi thì có mưa một chút cũng chẳng sao. Ai dè, sau hơn 2 tiếng lái xe, đến cách phà Cát Lái độ chừng ba, bốn cây số, cơn mưa lũ đổ ập xuống khiến dù đã mang áo mưa, tôi vẫn phải tấp vào một quán bên đường, đợi cơn mưa giảm bớt xuống rồi đi tiếp cho an toàn. Hơn cả nửa tiếng đồng hồ sau, khi thấy hạt mưa nhỏ dần, hai vợ chồng lật đật leo lên xe chạy thẳng đến bến phà, ở đó vừa trú mưa vừa theo chuyến phà về bên kia sông Sàigòn, và may mắn thay, qua bên kia sông thì trời tạnh hẳn, mừng hơn nữa là về đến nơi bình an vô sự. Ai thấy vợ chồng tôi có máu phượt (đi bụi đời) như thế cũng le lưỡi, bảo đi mưa như thế về ít nhiều là cũng bị ốm, bị cảm; nhất là lái xe gắn máy chạy tứ tung đi khắp tỉnh - đã thế lại còn là Việt kiều nữa chứ ! To gan thật - hay đúng là khùng, hoặc nhẹ nhàng hơn là điếc chẳng sợ súng. Tôi lại nghĩ khác, đơn giản hơn - đã đi thì cóc sợ, mà nếu sợ thì đừng đi. Chỉ có vậy thôi.


Xem nguyên bản

Về đầu trang


Những Nẻo Đường Quê Hương - Cần Giờ

Trần Văn Sanh

Hơn hai thập niên, từ 1989-2009, nhiều nhà khoa học gia, trí thức và nhất là Bộ Canh Nông của Việt-Nam đã lo ngại về chuyện Trung Quốc sẽ hoàn tất đập nước Tam Hiệp (Three Gorges Dam) vào năm 2012, trên giòng sông Dương-Tử ( Yangtze River) nổi tiếng là khó trị, sức nước chẩy mạnh như vũ bão. Đầu tiên là khi hoàn thành, Trung Quốc sẽ hoàn toàn chủ động việc giữ & thải nước, khiến cho những quốc gia ở hạ nguồn trực tiếp bị ảnh hưởng trầm trọng đến thị trường canh nông, cầy cấy của họ; mà thiếu nước và phù sa (chất bổ mang xuống từ thượng nguồn) sẽ bị giảm đi rất nhiều, khiến vấn đề trồng trọt ngày càng trở nên khó khăn, và quan trọng hơn - khi thủy triều từ biển lên, con nước mặn sẽ tràn vào vùng đồng bằng sông Cửu Long, có nơi đang bị cạn nước bởi con đập Tam Hiệp của TQ nói trên khi họ khóa đập, ngăn chận dòng lưu lượng qua bao ngàn dậm, chẩy từ dẫy núi Hy Mã Lạp Sơn. Sự kiện này sẽ khiến vùng mệnh danh là vựa lúa của Việt Nam (và của Đông Nam Á trước năm 1975) sẽ bị trở thành vùng nước lợ - do cái mặn của biển hòa lẫn với sông nước ngọt của miền đồng bằng sông Cửu Long - khiến việc trồng lúa sẽ ngày càng trở nên khó khăn, tồi tệ nếu không có những biện pháp nghiên cứu, khai phá thêm giống lúa mới, giống lúa có thể sống và sinh trưởng ở những vùng nước lợ.

Cách đây hơn 7 năm, một cựu phóng viên chiến trường - của báo Sóng Thần trước 75 - đã làm một chuyến về miền tây, ghi lại phóng sự về cuộc nghiên cứu của ĐH Cần Thơ, nơi các giảng-viên Đại-Học từng cộng sức, hợp tác với các bạn đồng nghiệp bên Thái Lan, Phi Luật tân, Lào - đã sáng chế ra những giống lúa mới có thể trồng cấy tại những vùng nước lợ trong tương lai. Rất tiếc là tôi không còn lưu lại bản PDF của anh ấy, nhưng cũng tò mò muốn biết vùng có dòng nước mặn lẫn ngọt thì các sinh vật lẫn thực vật đã sinh sống và phát triển như thế nào. May mắn là chẳng cần tôi phải lái xe chạy tuốt xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long hơn cả trăm cây số để viếng thăm quan sát về sự kiện sinh thái của vùng ngập mặn. Việt nam có cả một khu rừng ngập mặn - rộng trên 7000 hecta - gọi tên là Cần Giờ - cách Sàigòn chừng khoảng hơn 45 km về hướng Đông Nam, mà đường đi thì dễ nhớ. Từ con đường Hàm Nghi chạy ra phía bờ sông Bạch Đằng, quẹo phải là Tôn Đức Thắng để qua cầu Khánh Hội - trở thành đường Nguyễn Tất Thành, cứ theo con đường này sẽ đổi thành đường Huỳnh Thúc Kháng và tiếp tục đi mãi sẽ đưa bạn đến bến phà Bình Khánh. Giá vé đi phà hiện nay tôi chỉ tốn $5k đồng cho xe máy tay ga, xe thường thì vé chỉ có $4500. cổng chào của Huyện Cần Giờ

Qua bên kia sông Sàigòn, bạn sẽ gặp ngay cổng chào của Huyện Cần Giờ, con đường vào tên là Rừng Sác, đi mãi trên con đường này và khi sắp đến cây cầu thứ nhì - chừng hơn 1 cây số - bạn sẽ đi ngang nơi gọi là Đảo Khỉ nằm phía bên phải - khu sinh thái Lâm Viên, rồi qua một cây cầu Hà Thanh là tới vùng duyên hải, bãi biển của huyện Cần Giờ. Lúc đi đường, tôi trộm nghĩ, giá mà cây cầu Dần Xây đã đi qua , đặt tên nó là cầu Thái Thanh có phải là hay hơn, rất phù hợp với cái cây cầu tên Hà Thanh này :) Đường đi Cần Giờ rất vắng, như cu Lương nhà tôi đã báo trước "chán bỏ mẹ, chẳng có gì ở hai bên đường", nhưng nó còn thiếu xót một điều là đường đi tuy rộng lớn, nhưng nhiều đá sỏi, vì vậy bạn cũng nên cẩn thận, kiểm soát vỏ xe, ruột xe thứ còn thật tốt; vì suốt hai bên đường cả hơn 25 km - đều vắng hoe không hề có tiệm sửa xe. Xe bạn gặp "sự cố" thì chỉ có nước chờ đón, vác lên xe buýt để về tận bến phà và chuẩn bị hầu bao cho chuyện sửa chữa. Thêm chuyện này nữa, đi Cần Giờ có nhiều Cảnh Sát giao thông nên bạn phải chịu khó & tàn tàn đi theo đúng luật; tôi gặp một cu cậu lái xe nhưng không gắn gương chiếu hậu, thế là bị hai anh CSGT ngoắc lại sờ gáy; gặp anh chàng lúc trên phà về lại Sàigòn, hỏi thăm thì tôi được biết tiền phạt là $150,000 - thế là toi một tuần lễ ăn sáng với cà phê của một anh lao động làm công trường. (hai kẻ lãng du, bụi đời dừng chân trên một chiếc cầu tên cũng ngộ nghĩnh "cầu Dần Xây") Như đã nói trên, trên đường đi chẳng có gì là lạ, hai bên đường thưa thớt bóng người, toàn là những cánh rừng nhiều loại cây, chủ yếu là hai loại Bần Trắng, Bần Chua, và dừa lá. Chỉ khi nào bạn đứng trên cầu nhìn bao quát, mới thấy cái bao la, ngút ngàn của biển và rừng. Những nơi nào nước cạn bạn mới thấy được mầu vàng của chất phù sa, một lượng lớn đem xuống từ sông Đồng Nai, khiến cho vùng đất nơi đây trở thành phong phú, nuôi dưỡng hàng trăm loại động vật & thực vật, trong đó có nhiều loại chim, cò và giống bò sát như cắc kè (hay tắc kè), kỳ đà, cá sấu , trăn, rắn...sinh sản và phát triển nhanh chóng. một trong những nhánh sông chẩy ra biển Đông.

Năm 2000, khu rừng ngập mặn Cần Giờ này được cơ quan UNESCO của Liên Hiệp Quốc công nhận là Khu Tàng trữ Sinh Thái , một trong những khu sinh thái quan trọng nhất của thế giới. Khu rừng ngập mặn Cần Giờ hiện nay được coi như là "quả thận" của thành phố Sàigòn, có nhiệm vụ làm sạch không khí và nước thải từ các công nghiệp xung quanh thành phố, trước khi xuôi theo hệ thống sông ngòi Đồng Nai đổ ra biển Đông.

Chúng tôi đến khu thị-xã Cần Giờ khoảng giữa trưa nên bắt đầu cảm thấy đói bụng, ghé vào một quán bún Cá dọc bên đường. Ngồi ăn và hỏi thăm về đời sống cư dân ở đây, bà chủ quán vui vẻ bưng hai tô bún nóng hổi ra rồi kéo cái đòn ghế ngồi gần, tâm sự rằng dạo này buôn bán ế ẩm, mà không chỉ riêng bà. Chỉ cho chúng tôi cái căn nhà bên cạnh vẫn còn như vừa xây độ chừng vài năm, trông còn mới. Bà bảo:

- Chủ nhà ấy mấy năm trước làm ăn khấm khá lắm, cho nên mượn thêm vốn để đầu tư. Ai dè kinh tế ngày càng tệ dần, bây giờ căn nhà đó muốn bán để trả nợ nhưng còn bỏ trống hơn cả năm, vẫn chưa bán được.

- Căn nhà ấy giá bao nhiêu vậy bác? Tôi tò mò.

- Mới đầu người ta đòi hơn tỷ rưỡi, bây giờ thì một tỷ cũng bán...

Điều cần phụ đề thêm cho những "Lưu Nguyễn" chưa bao giờ về Việt-Nam, hay ít khi về thăm, là hiện nay người ta toàn nói chuyện bạc tỷ, vì cỡ một nhóc tì Việt kiều về nước được bố mẹ dúi cho khoảng $45 - $50 đô la dằn túi cũng đã là triệu phú; ai cũng là triệu phú. Nhiều anh làm nghề Bảo Vệ (xưa gọi là bác "gác gian" - trông chừng kẻ gian) , chỉ ngồi không ngáp đuổi ruồi thì lương cũng đã trên $3 triệu đồng một tháng. Việt-Nam có một chuyện "thần kỳ" là tính theo đầu người thì lương bình quân (trung bình) hàng năm của dân Việt nghèo nhất Đông Nam Á (chỉ hơn Cam Bốt và Lào), nhưng giá nhà cửa, đất đai ở Sàigon & Hà Nội lại cao nhất, ngang hàng và có khi còn đắt hơn cả New York hay London. Thế mới thật quái chiêu. Con đường mang tên Cần Thạnh là đường chính vào thị xã, phần vì khoảng giữa trưa và vào ngày thường, cho nên con đường vắng hoe, thỉnh thoảng mới có một, hai chiếc xe chạy qua. Bà chủ quán kể là mấy năm trước con đường này thường xuyên tấp nập, bận rộn đón du khách; nhiều nhất là khách cuối tuần thường hay đón xe buýt (chuyến xe số 20 ngay trước cửa chợ Bến Thành, sau khi qua phà các bạn sẽ thấy xe bus 90 đứng tại bãi xe, hãy theo chiếc xe này nó sẽ chở bạn tới bãi biển) hay đi phượt bằng xe gắn máy đến đây để hưởng gió biển trong lành và thưởng thức đủ loại thức ăn hải sản. (học sinh đùa giỡn buổi trưa trong công viên)

Dùng trưa xong, tôi lái xe đến trung tâm thị xã, nơi có công viên dành cho gia đình và trẻ con đến chơi. Cách đó không xa, chỉ vài bước là bãi biển Cần Giờ. Với một tô bún ăn no cành hông, tôi cảm thấy hơi buồn ngủ lẫn khát nước mà bên cạnh công viên lại có một quán võng thưa người. Thế là tôi chui vào thuê hai cái võng, gọi hai ly nước mía. Chả mấy chốc, sau khi nằm ngả lưng chẳng biết được bao lâu, tôi đã ngáy ngon lành giữa buổi trưa hanh nắng và gió mát thổi vào từ biển. Trong giấc mộng ngắn ngủi, tôi nằm mơ thấy mình vẫn còn đang ở bên Mỹ, đang nằm ngủ trên giường và mơ đến giây phút mình được thảnh thơi nằm trên bãi biển nào đó ở Việt-Nam. Thức dậy và nhớ lại giấc mơ ngắn, tôi cảm thấy hơi là lạ, nhưng cũng mừng vì hiện tại, đó không phải là giấc mơ, mà chính mình đang sống ở nơi tôi đã sinh ra, đã một thời nghe về cái địa danh "Rừng Sát" mình đang đặt chân lên. quán võng

Khu rừng ngập mặn ở Cần Giờ này trước đây còn có một cái tên vang dội trong lịch sử vào thời chiến, thưở đó người miền Nam thường hay gọi là chiến khu hay mật khu Rừng Sát, đã một thời chẳng ai dám héo lánh, mạo hiểm vào khu rừng ngập mặn này - ngoại trừ những dân quân, cán bộ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN); vì những cạm bẫy, hầm chông chết người; và thuốc khai quang, thuốc độc đã từng bị không quân Mỹ rải hòng để tiêu diệt quân giải phóng. Phải mất hơn 30 năm sau khi chiến tranh chấm dứt, khu Rừng Sát này mới được hoàn toàn phục hồi để đón du khách đến viếng, và thư giãn.

Sau khi thức dậy, hai vợ chồng đi bộ ra bãi biển vắng người. Trưa nắng, thủy triều xuống thấp, chỉ còn trơ trọi lại một chiếc thuyền mắc cạn, hoặc đang chờ sửa chữa và một chiếc xe đạp, không biết chủ nhân của nó là ai và ở đâu. Tôi nhìn về phía xa tít mù khơi đằng trước - phía có hàng rào cọc gỗ - mà thường là những bãi nghêu, sò được người dân ở đây chia thành từng lô để chăm sóc, theo định kỳ cào lên bán cho thương lái hay ngay bên trong chợ. Biển vùng này có rất nhiều phù sa từ thượng nguồn mang về cho nên nước biển thường luôn đục và mang mầu vàng của vùng đất đỏ ta hay thấy ở các miền tây bắc cao nguyên như tỉnh Lâm Đồng chẳng hạn.

Trong lúc trả tiền thuê võng và nước uống, tôi hỏi thăm người chủ quán là nghe nói ở đây có những bãi biển sạch đẹp mà du khách thường hay ra tắm, chị bảo là cứ đi theo con đường chính ra khỏi thị xã, gặp con đường 30/4 (Ba mươi tháng Tư), quẹo trái đi thẳng là tới. Đúng như lời chỉ dẫn, tôi đến một khu có nhiều bóng cây xanh mát mà tôi đoán có lẽ là chố đậu xe. Lúc đến gần tôi mới thấy một bức tường dựng lên bằng những tấm thiếc dùng làm mái tôn - chạy dài cả hơn cây số, che khuất cả bãi biển.

Đang hỏi thăm một đứa bé thì nó bảo rằng bây giờ bãi biển đã được tư nhân thuê lại của chính phủ, đang "thi công" xây thành một khu resort - nghỉ dưỡng - sang trọng. Chưa kịp suy nghĩ , tưởng tượng rằng rồi khu bãi biển này mai sau sẽ chỉ dành riêng cho những kẻ thừa tiền lắm bạc, tôi thấy một toán người - ít nhất là 10 đến 12 – lái xe gắn máy ào ào đến vây quanh xe của tôi, họ luôn miệng mời chào, khuyên tôi nên đi chỗ này, chốn nọ mà họ rất sẵn sàng đưa đường, chỉ dẫn. Tôi vốn không thích bị gượng ép, chèo kéo - nhất là giới ở đây gọi là "cò" - vì chẳng biết đâu là thật, đâu là giả; và nhờ chị chủ quán khi nẫy cảnh báo trước là coi chừng đám cò mồi, chặt chém. Tôi khéo léo từ chối và nhanh chóng - nhưng không hối hả - rời khỏi khu du lịch "30/4", nhờ một chiếc xe buýt mới tấp vào đã thu hút nhóm cò mồi cưỡi ngựa sắt rầm rộ, bỏ hai vợ chồng tôi để bu vào nhóm du khách mới đến.

Trên chuyến phà qua sông Sàigòn

Nghe nói ở Cần Giờ hiện đang có vài nơi đang được phát triển để thu hút du khách tham quan, hay mạo hiểm ghé vào; như có chỗ đưa khách đi câu cá sấu (thực sự ra là nhử cho cá sấu cắn mồi với thức ăn) bằng xuồng bọc kẽm gai, hoặc leo lên chỗ chòi cao 268 bậc, ngắm đàn cò đậu kín cả một khu rừng; chỗ thì cho câu cua – ai bắt được bao nhiêu thì nhà bếp sẽ làm những món ăn theo ý muốn; rồi khu Đảo Khỉ mà du khách nên coi chừng, vì lũ khỉ này đã quá thuần thục, dạn dĩ với người cho nên phải cẩn thận đồ đạc, máy ảnh, dễ bị chúng chụp giựt, quăng lấy đi mất. Thu hút nhất có lẽ là khu lưu lại những di tích lịch sử của thời chiến tranh, nơi vẫn còn những hầm hố trú ẩn, chỗ hội họp bí mật của những du kích quân kháng chiến, v.v... Tôi sợ nếu về trễ hơn chút nữa, không chừng trên đường đi lại mắc mưa ướt như chuột lột như những lần đi gần đây - nhất là cho kịp chuyến phà, nên hai vợ chồng lại phom phom cưỡi con ngựa sắt , lại một chuyến "ông mê" lên đường trở về, hẹn mai sau sẽ trở lại khi có dịp.

09/2015
Xem nguyên bản

Về đầu trang


Những Nẻo Đường Quê Hương - Nha Trang

Trần Văn Sanh


Đèo Ngoạn Mục

Từ Đà Lạt xuống Nha-Trang - sau khi người ta mở thêm con đường trên đèo Ngoạn Mục mới cách đây hơn 3 năm - bây giờ chỉ mất không tới 3 tiếng đồng hồ, đó là kể cả giờ dừng chân, nghỉ xả hơi; mà ai có chút ngông hoặc máu lạnh, hay vì công chuyện cấp bách - nghĩa là đạp chân ga chạy tốc váy - cũng có thể chỉ mất hơn 2 tiếng. Sau khi ở Đà Lạt hơn 3 tuần lễ, trong một buổi chiều hai vợ chồng đi bộ từ ĐH Sư Phạm – khu Yersin - xuống tận phố để đi ăn tối, trên đường đi ngang qua bờ hồ thấy bầu trời hiện lên vầng tà dương với một mầu "tim tím ban chiều, tim tím mai" (thơ Cung Tích Biền), tôi phải chụp lấy vài tấm ảnh để lưu niệm, vì sáng sớm hôm sau vợ chồng tôi sẽ ghé xuống Nha-Trang vài ngày.

Bất ngờ hôm xuống Nha-Trang, cũng trong một buổi chiều tà lái xe đi loanh quanh tìm quán ăn quen thuộc mà mỗi lần ghé thăm Nha-Trang, tôi vẫn thường ghé đến. Lúc trên cầu Trần Phú từ làng chài trở về phố, thấy bầu trời trên biển Nha-Trang cũng xuất hiện một mầu sắc tương tự như ở Đà-Lạt, tôi cũng vội chụp vài tấm để đem về xem và so sánh.

Trước khi tôi đi quá xa - chỉ nói về Nha-Trang - cũng nên kể sơ qua về những chuyến đi mà tôi coi như thường lệ khi đã ở Đà Lạt sau một khoảng thời gian, thì cuộc hạnh trình kế tiếp như trước đây - thường là một chuyến "trốn lạnh", tìm miền nắng ấm với gió biển. Nha Trang là nơi lý tưởng nhất. Trên con đường đèo trước khi xuống Nha Trang, rời thành phố Đà Lạt, từ Trại Mát, Trại Hầm trở đi - khi thấy loài hoa xưa hay gọi là Cúc Quỳ - nay là Dã Quỳ - vàng rực rộ nở hai bên đường, tôi biết là những ngày mưa phùn gió bấc ở Đà Lạt cũng sửa soạn sắp hết, nhường lại bầu trời xanh, nắng ấm cho những nụ hoa Đào nẩy mầm trên cành, chờ đợi những ngày xuân sắp đến.

Kế tiếp là cảnh sương mù khi xe dân lên dốc, sắp sửa vào con đèo Ngoạn Mục (nhưng đi trên con đường mới), và sau đó bạn sẽ thấy nhiều con suối, thác nước lớn nhỏ dọc hai bên đường - như những người lái xe gắn - dân đi phuợt - thường hay làm, nhưng tôi vì ngồi trên xe bus của hãng Sinh Tourist, mà tài xế bị giới hạn là phải đến Nha-Trang đúng giờ, cho nên hiếm khi dừng dọc đường (ngoại trừ những trường hợp để hành khách "xả hơi", không thì nguy to trên xe !), và thường là quán Kim Phượng, điểm dừng chân duy nhất trên con đường từ Đà Lạt xuống Nha-Trang, nơi tài xế cho mọi người xuống xe đi bộ cho giãn gân cốt, vào nhà vệ sinh và sau đó ăn trưa tại nhà hàng nếu muốn.

Điểm dừng chân - Quán Kim-Phượng

Lúc thấy xa xa, ẩn hiện cái thác nước trông thật hùng vĩ, tôi phải canh sẵn máy ảnh , đợi cho xe đến một góc cạnh mình muốn rồi bấm liên tục cả chục tấm, hy vọng sẽ bắt được một, hai tấm ưng ý để dùng cho câu chuyện.

Khi xe đi qua rồi tôi chợt nghĩ, giá mà ai có máu buôn bán và đồng thời với một tâm hồn ẩn dật, xin phép mở một quán nhỏ cạnh bên thác nước cho du khách dừng chân, để họ chụp vài tấm hình, uống nước dừa ngồi trao đổi kể chuyện bốn phương, tám hướng, coi bộ cũng có lý lắm.

Nhìn cảnh trời mây, suối nguồn thác chẩy giữa ngọn đèo cheo leo, hẻo lánh, đã khiến tôi chợt nhớ lại bài thơ "Chàng Dũng Sĩ" mình viết từ năm xưa, trong đó 4 bốn câu thơ diễn tả tâm trạng của một chàng thanh niên sau một khoảng thời gian ẩn dật, trốn lánh đời thường, chàng một hôm tỉnh giấc, lên đường đi tìm lại người chàng yêu thương.


tỉnh giấc hồn về lại với xác
ra suối thấy hình dáng xanh xao
nhìn cánh chim bay lòng dào dạt
chàng tìm thanh-kiếm chôn thưở nào…

Bây giờ trong lòng tôi thì hoàn toàn ngược lại, nay chỉ muốn "lên non tìm động Hoa Vàng" - như Lăng Nhăng Thiền Sư dạo này thường hay gửi thư chọc ghẹo, hỏi thăm.

…chàng dẫn đưa nàng về cố quốc
xây mái nhà tranh cạnh rừng xưa
giữa cảnh sơn lâm, hồn non nước
bên nhau mặc ngày tháng trở mùa .

Nếu tin đồn là thành phố Đà Nẵng bây giờ ít nhiều gì cũng đã nằm trong tay Trung Quốc, vì nhiều vùng đất có vị trí chiến lược - về kinh tế lẫn quân sự - đã bị người phương Bắc, đội lốt dân địa phương đứng tên mua và làm chủ. Tin đồn nói về thành phố Nha-Trang cũng chẳng kém sôi nổi, là thành phố này coi như thuộc về Nga Sô, một quốc gia đồng minh đã một thời làm chủ vịnh chiến lược Cam Ranh ngay sau khi miền Nam buông súng đầu hàng năm 1975. Năm ngoái, ngồi ở ngã sáu Phan Chu Trinh, Lê Lợi và Hàn Thuyên, vợ chồng tôi gọi món cháo & gỏi vịt - ngon và rẻ thần sầu (một dĩa gỏi, 2 tô cháo, một nửa con vịt và chai bia 33, tất cả chỉ hơn $107,000 - chưa tới $5 đô la) - ngồi nhìn sang bên kia bên kia đường có vài tiệm, quán ăn dịch vụ không riêng gì cho du khách Nga mà luôn cả nhiều chuyên viên dầu hỏa - từng toán người thay phiên nhau từ dàn khoan dầu ngoài khơi trở vào đất liền. Họ sinh sống và đem gia đình, họ hàng đến đây ở cũng đã hơn 4 thập niên. Nhiều hàng quán ngay ở đại lộ Trần Phú cũng niêm yết, đề bảng tên món hàng và giá tiền theo tiếng Nga, thế mới biết sự hiện diện của nước Nga trên đất Việt chẳng phải còn là tin đồn gì cả. Tiệm buôn bán của Nga ở ngã Sáu

Tiệm tạp hóa niêm yết với giá cả bằng tiếng Nga trên đường Trần Phú Có một điều khác biệt về sự hiện diện của Trung Quốc và Nga Sô ở Việt Nam mà mọi người ai cũng ý thức được; đó là người Việt chống đối Trung Quốc ra mặt, hoặc ít ra nếu có dịp cũng sẽ cho đám dân này biết tay nhau, như chuyện một người đàn ông TQ ở Đà Nẵng hồi tháng 11 vừa qua đã bị bắn chết ngay trước cửa nhà, mà báo chí viết kể lại, có vài nhân chứng thấy kẻ sát nhân đã thong thả, tàn tàn rời khỏi hiện trường mà chẳng sợ bị tố cáo hay dân trong vùng vây đánh.

Riêng về sự hiện diện của người Nga thì ít người ghét, chỉ một số dân địa phương không ưa thái độ của người Nga khi họ hách dịch, xem thường dân bản xứ thấp kém nghèo đói. Đó là cái tự ái vốn có của bất cứ một giống dân nhược tiểu. Chuyện Trung Quốc ngấm ngầm làm chủ những vị trí đất đai quan trọng, dưới danh nghĩa của một số người Việt mất gốc. Cũng có tin đồn rằng chỉ cần nhà nước tuyên bố sẽ sử bắn những ai tiếp tay với thù địch, và cho họ khoảng thời gian tự thú , khai hết sự thật - thì tất cả những bất động sản ấy sẽ bị tịch thu, thuộc về nhà nước. Nói thì nghe hay lắm, chiếm đất của dân ngu khu đen thì dễ, lấy lại của một thế lực mạnh đứng sau lưng không phải như chuyện giựt lấy bánh kẹo của con nít.

Du khách Nga đang đứng chờ món tôm hùm làm tại chỗ bên lề đường. Trong túi nylông sách tay là vài chai rượu Volka, giá còn rẻ hơn ở nưóc họ.

Phải nói là không những chỉ riêng ở trung tâm thành phố Nha-Trang, mà cả những khu nghỉ dưỡng, resort ở Mũi Né, Phan Rang, Phan Thiết ,v.v…cũng "bầy nhầy", đông dân Nga. Đi đến đâu cũng "đụng hàng". Cứ ra đường - nhất là ở khu khách sạn, nhà hàng, bãi biển - sớm muộn gì cũng nghe tiếng Nga Sô líu lót vang vọng. Mỗi lần tôi đi bộ băng qua bên kia đường, thể nào cũng có một vài người du khách Nga vội vàng đi theo tháp tùng, vì chỗ dành riêng cho người đi bộ chẳng có, và cho dù đường có vẽ những lằn sơn trắng mà theo đúng sách vở thì mọi người phải nhường cho khách bộ hành. Dân Việt mình thì mạnh ai nấy đi, ai có gan cứ bước từ từ băng qua thì các xe cộ lại né, tránh. Không thì ráng chờ đến nửa đêm về sáng khi phố xá vắng tanh không người. Quán Cháo & Gỏi Vịt ở ngã sáu Phan Chu Trinh & Hàn Thuyên Quán chỉ bán vào buổi tối, mà ban ngày ai đi ngang cũng sẽ chẳng sự có mặt của nó vào ban đêm. Quán Nem Nướng 52 nổi tiếng ở đường 29-31 Lê Lợi sau giờ ăn trưa Những quán ăn ngon ở Nha-Trang được dân du lịch - lẫn cả địa phương - thường hay ghé thăm, truyền tụng: Quán bánh Canh cô Lộc 30 Phan Chu Trinh

Quán bánh Canh, bún Cá Nguyên Loan 123 Ngô Gia Tự (ngã tư Trịnh Phong)

Quán Nem 25 Lê Hồng Phong

Quán Nem Đặng Văn Quyên 16B Lãn Ông

Quán bún lá Ninh Hòa số 2 Lãn Ông

Quán bún lá Cây Bàng Ninh Hòa số 6 đường Hàn Thuyên

Quán Hoa Biển ngay bùng binh phía bắc cầu Trần Phú

Quán Gió Biển ngay bùng binh phía bắc cầu Trần Phú

Quán Biển Hồng phía bắc (qua) cầu Trần Phú

Phở Gia Truyền Bắc Hải 76 đường Quang Trung

Khi còn ở trong phố, bạn cũng nên ít nhất một lần ghé thăm chỗ XQ Sử Quán nằm ngay trên góc đường Trần Phú & Biệt Thự, nơi nói về ông tổ của ngành thêu dệt và gian hàng triển lãm, bán những vật thủ công, tranh thêu làm bằng lụa. Nhớ là mang theo nhiều “địa” - vài tờ $500 ngàn - để nhỡ có ngứa tay mua về những chiếc khăn lụa, hay tranh thêu bằng tay rất công phu và mỹ thuật. Ở đó bạn có thể được mời uống những tách trà được nấu bằng ấm đất, ngồi ngắm những tà áo dài lượn qua lại chào đón khách, hay đi quanh ngắm những bàn tay khéo léo ngồi thêu dưới ánh đèn neon, hay còn muốn ngắm gì khác nữa thì tùy hỉ.

XQ Sử Quán - triển lãm tranh thêu tay & áo dài lụa - góc đường Trần Phú & Biệt Thự

Sau những ngày dạo phố, ăn uống, tắm biển ở thành phố Nha-Trang, còn một nơi nữa bạn cũng nên thử đến một lần cho biết - đó là đi tắm bùn, ngồi trong suối khoáng nóng ở gần khu Tháp Bà, gọi là Suối Khoáng Nóng Tháp Bà Spa - nơi dành cho giới bình dân và trung lưu. Sang trọng và mới mở cách đây chừng 3-4 năm là I-Resort, cách thành phố Nha Trang chừng 5 km về hướng Bắc (qua khỏi cầu Trần Phú). Lần đầu tiên tắm bùn tôi đã ghé đến chỗ Tháp Bà Spa, cách đây cả 10 năm nên mọi thứ vẫn còn mới và giá vừa phải. Giờ nghe nói xuống cấp cho nên giá rẻ ơn khu I-Resort, nơi mà chỉ vào tắm nước Khoáng giá vé cũng đã $200 ngàn cho một người. Cộng thêm tắm bùn nữa là $450 ngàn/1 người - đủ tiền chợ ít ra được 4-5 ngày cho gia đình 4 người. Nghĩa là một người tắm bùn bằng cả nhà ăn mì gói cho cả tuần!

Hồ ngâm Nước Khoáng Nóng ở I-Resort

Tắm bùn, đứng dưới giòng thác đổ như được ai tẩm quất (massage), tắm nước khoáng nóng xong là vừa lúc đói meo. Quất đại vài món ăn nhẹ bụng, xong ra chọn một chiếc ghế nệm nằm ngủ khò, chừng hơn nửa tiếng sau tỉnh giấc, nếu bạn thích thì nguyên cả một hồ suối khoáng nước nóng đang chờ đợi bạn xuống ngồi ngâm mình. Vừa sướng rên mé đìu hiu vừa được ngắm mấy cô, mấy bà thích ỏng à ỏng ẹo, đứng dựa hoặc leo lên hai tảng đá để mấy chàng, mấy ông chụp hình về khoe. Bên cạnh hồ có bảng cảnh cáo cho đám đàn ông, đừng ngâm mình lâu hơn 30 phút - sợ "trứng" luộc quá độ đâm ra sẽ hiếm sinh con. Tôi nghĩ, giá mà hãng Monsanto biết cái bí quyết này, thay vì bỏ bao nhiêu tỷ bạc để đổi gene thức ăn (GMO) làm giảm bớt nạn nhân mãn; xây cho mối làng, mỗi xóm một cái hồ nước nóng như trên, coi bộ hiệu quả hơn nhiều !

Dốc Lết

Ai đến Nha-Trang mà chưa một lần ghé thăm Dốc Lết hoặc Bãi Dài (ở Cam Ranh) thì quả là một thiếu xót không nhỏ. Dốc Lết nằm về hướng bắc, cách Nha-Trang độ chừng hơn 45 km. Bạn có thể đón xe buýt đi đến đó - tốn khoảng $30.000 đồng - hay mạo hiểm như vợ chồng tôi, đã 2 lần lái xe gắn máy để tắm biển ở Dốc Lết. Sau mùa hè trở đi, nhất là khoảng tháng 10, tháng 11 thì bãi rất vắng người, bạn tha hồ mà nghỉ ngơi, thư giãn. Trên con đường vào khu bãi tắm, có hai ngã rẽ cho bạn chọn - rẽ phải vào khu resort cỡ 3 sao trở lên, còn rẽ trái dành cho khu bình dân hay trung lưu muốn tiết kiệm tiền. Tôi không vào khu hạng sang, dành cho khách muốn được hầu hạ từ A-đến-Z, vì vào đó còn có gì lạ, có gì là mạo hiểm - ngoài chuyện hầu bao bị thiến...quên, chặt chém! Quẹo vào phía bên trái thì chỗ đậu xe gắn máy tuy lưa thưa, nhưng cũng nhiều hơn là số xe hơi đậu ở khu bên cạnh.

Bãi biển ở Dốc Lết trong mùa vắng khách

Mọi người vào đây là phải tự chọn chỗ, nơi có mái chòi và bàn ghế; hay chọn cả một khu riêng biệt dành cho gia đình, cho các cơ quan, hội đoàn tổ chức đi dã ngoạn. Xong đâu đó thì bạn muốn ăn uống thì vào khu nhà hàng ở phía trong, đặt món ăn thức uống rồi ra kéo chiếc ghế bố, võng hay ghế nệm thường bầy la liệt trên bãi biển với cái dù to che nắng - để du khách thư giãn, phơi nắng, nằm nghỉ sau khi tắm biển. Từ hơn ba năm trước, người ta không cho phép dân làng chài vào ngay cả khu bình dân này để mời mọc, chèo kéo, bán những món ăn hải sản. Tôi phải lần mò đi bộ khoảng hơn 50 mét để qua chiếc cổng nhỏ hẹp, vào chợ của dân chài, nơi mà mỗi người ngồi bán với những chiếc thau, cái thúng đựng tô, cá, mực, ghẹ...vừa mới bẳt đem lên bờ từ sáng sớm. Nhìn quanh, thấy vắng hoe không người mua. Thấy tôi, mọi ngưòi xúm lại mời mọc lẫn chút nài nỉ xin mua dùm cho họ. Sau khi đặt mấy món hải sản từ bốn người bán hàng, dặn họ làm thức ăn theo ý muốn, chừng nửa tiếng nữa tôi sẽ trở lại lấy - vì nơi cho thuê chòi, ghế nằm không cho phép họ đem thức ăn nước uống qua. Tôi vì thấy tội nghiệp cho những người dân chài, buôn bán quanh đây, hết mùa vắng khách nên cuộc sống của họ đương nhiên gặp khó khăn, cho nên mới lặn lội tìm đến, ít ra cũng cho họ được chút niềm vui, hy vọng vào tương lai. Nằm thư giãn rồi chỉ cần ngoắc tay gọi người hầu bưng đến những thứ mình muốn, còn gì là lạ, là vui. Thừa tiền thì ai mà chả làm được. Tôi nghĩ thế. Tôm Hùm & Soài Tượng chấm mắm ớt. Hai món ăn thật hỗ tương lẫn nhau, một thì nâng cao lượng Cholesterol, một thì giúp hạ xuống chất béo. Thêm dĩa Tôm Xú nướng than tưới hành tỏi và vài chai bia nữa thì oh! what-tờ-heo - quên cả trời lẫn đất... Cách vài mét để lại vỏ dừa đánh dấu đường trở về nhỡ khi thất lạc... 

Bãi Dài vẫn còn nhiều nét hoang sơ, cát rất mịn, nhưng đúng là tên bãi Dài - đi từ đầu đến cuối bãi cũng mệt nghỉ !

Cuộc vui nào rồi cũng tàn, ngày vui nào rồi cũng qua nhanh. Ở Nha-Trang mới mấy hôm mà đã phải sắp sửa trở về. Mấy năm trước tôi thường hay leo lên xe lửa về Sàigòn, nhưng lần này mang ít đồ lỉnh kỉnh, vợ chồng tôi đã mua vé của Sinh Tourist ở trên đường Hùng Vương - xe giường nằm - mỗi vé chưa tới $200 ngàn (gần $9 đô la). Leo lên xe khoảng 8 giờ 30 tối, sáng hôm sau cỡ 5 giờ là đến nơi. Coi như đỡ được một đêm ngủ ở khách sạn. Trên xe cũng có vài cặp người Nga, họ rủ nhau xuống Mũi Né, tiếp tục đi tắm biển ở đó. Đi ban đêm nên chẳng thấy cái quái gì, nên ai cũng chổng mông lăn quay ra ngủ. Chợp mắt dậy may ra chỉ thấy vài vườn cây Thanh Long đang giăng đèn mở sáng trưng cả một bầu trời. Xe chỉ ngừng hai nơi để hành khách lẫn tài xế xuống duỗi chân, làm vệ sinh. Hãng Sinh Tourist rất cẩn thận, họ luôn có 2 tài xế, thay phiên nhau lái để tránh tai nạn. Nói không phải để quảng cáo cho hãng này, nhưng ở Việt-Nam chỉ mới hơn 4 tháng, đọc báo đã thấy những hãng xe khác bị tai nạn dài dài, trong đó có 2 hãng lớn được "chống lưng" cho nên ít bị phạt tốc độ, hoặc tin tức về tai nạn cũng được báo chí đăng tin ậm ờ - không nói rõ tên hãng - nhưng mọi người ai ai cũng thừa biết.
11/2015


Xem nguyên bản

Về đầu trang


Những Nẻo Đường Quê Hương - Vĩnh Long

Trần Văn Sanh

Từ ngày cu Lương nhà tôi trở lại Mỹ, "cu" Linh vì vừa rảnh, vừa buồn tình nên thường hay rủ vợ chồng tôi đi đây đi đó, luôn tiện đi thăm và chào bà con trước khi cô nàng bay sang Mỹ xum họp lại với chồng. Nay Linh coi như an cư với cu Lương - đã được lạc nghiệp bên đó; giờ tới phiên đứa em kế - anh của Lương - rủ hai vợ chồng tôi đi phượt bằng xe motorbike - xe gắn máy - chuyến đầu tiên là đi thăm thú tỉnh Vĩnh Long, nơi mà một thời nó đã "trụ trì" ở đó được vài năm và có nhiều kỷ niệm lẫn kinh nghiệm sống chung với dân địa phương. Hai vợ chồng tôi cũng đã từng ghé thăm tỉnh Vĩnh Long đôi ba bận, hai lần thăm chợ nổi Cái Bè, ghé vào thăm vườn trái cây do đi theo đoàn du lịch, nhưng chưa bao giờ tự mình đi tìm tòi khai phá, cho nên khi nghe thằng em rủ, tôi cũng OK liền, chẳng qua tại vì ở quanh Sàigòn hơn một tuần, cộng thêm với cảnh "sáng nắng chiều mưa" cho nên cũng muốn ra khỏi thành phố một hai ngày. Từ Sàigon đi về miền Tây bây giờ dễ dàng như gọi món cơm sườn, cơm tấm để ăn sáng. Trong thành phố, bạn chỉ cần làm sao đến được con đường Nguyễn Văn Linh thuộc quận 7, từ đó là trực chỉ đi về hướng Tây Nam, xuống tận ngã ba Trung Lương trong vòng chưa tới 2 giờ đồng hồ cưỡi xe máy - chạy tàn tàn - không phải vì nhàn hạ ngắm phong cảnh, nhưng chính ra là tránh chuyện bị Cảnh Sát Giao Thông (CSGT) sờ gáy vì tội chạy quá tốc độ, hay chạy lấn làn đường - phạt đâu đó $300 ngàn chứ chẳng giỡn. (ngã ba Trung Lương)

Đến ngã ba Trung Lương - sau 70 km lái xe trên đường - là mọi người đã bắt đầu cảm thấy "ông mê" nên tạt vào một quán võng bên đường, để ngả lưng và nhâm nhi ly nước mía - uống vừa đã khát, vừa được nghỉ cái lưng, nằm đong đưa trên võng. Sau hơn nửa tiếng thư giãn, đi vệ sinh, chúng tôi leo lên yên ngựa chạy thêm chừng 66km là đã đến tỉnh lỵ Vĩnh Long, lúc đó đã giữa trưa cho nên chạy thẳng đến chợ , vào kéo ghế và làm bữa cơm trưa thật no bụng trước khi tạt vào một nhà nghỉ, thuê căn phòng có 2 giường lớn, dùng chỉ để ngủ qua đêm, rồi lại phóng xe lên đường xuống bến phà An Bình - băng qua sông Cổ Chiên - mà Huỳnh muốn đưa mọi người đi thăm khu vườn cây sinh thái (organic) của ông Sáu Giáo, ba năm trước lúc nào cũng đông đảo du khách từ khắp nơi trên thế giới, ghé vào ăn uống, đi thăm khu vườn rộng mấy hecta có nhiều mương rãnh, ao cá và đủ loại trái cây cho mọi người thưởng thức, hoặc mua đem về. trên chuyến phà An Bình hai kẻ bụi đời trên chuyến phà ngang

Khách tham quan đến đây có thể chọn tự mình câu cá dưới ao, hay những món ăn trên thực đơn, nhưng thú vị nhất - theo lời Huỳnh kể - là chủ vườn có một con chó rất thông minh, khi khách bảo rằng họ muốn đặt món gà quay rô ti, ông chủ sai con chó chạy vô vườn bắt gà, chập sau nó trở lại ngoạm cổ một con gà rồi ngẩng đầu đứng chờ; khi khách nói rằng họ muốn con to hơn hoặc nhỏ hơn, rồi nghe lệnh của ông chủ, thế là nó thả con gà vừa bắt - vẫn còn sống nhăn - xong chạy vào vườn rượt bắt con gà khác, kỳ này con gà nó bắt đúng cỡ như khách hàng đặt. Thế mới chiến! vườn cây Sáu Giáo Xui một điều là ban đầu Huỳnh tưởng mình đi lộn đường, tìm hoài không thấy cái trang trại hay vườn cây ăn trái Sáu Giáo năm nào; tôi theo xe của nó chạy qua, chạy lại quãng đường - hỏi người dân quanh đó thì họ chỉ cũng khá đúng, nhưng quên một chi tiết quan trọng: đó là chuyện vườn cây ăn trái của ông Sáu Giáo bây giờ tuy vẫn còn, nhưng đã gỡ đi cái bảng hiệu to đùng trước cửa, phần vì kinh tế mấy năm nay đã không còn phong phú như xưa, phần thì sưu thuế lại tăng dần, quá cao - khiến ông Sáu Giao đànhh phải gỡ bảng thương hiệu, chỉ còn nhận nấu ăn cho vài nhóm người quen thuộc, muốn vào ăn và thư giãn mỗi cuối tuần. Đó không phải chỉ mỗi vườn cây sinh thái của ông Sáu Giáo bị ảnh hưởng, mà nhiều khu vườn trái cây quanh tỉnh dành cho khách cũng bị cùng chung số phận, họ phải đóng cửa vườn cây, bán lại cho người khác hay chuyến sang nghề khác.

Cô con gái của chủ vườn kể lại thời còn làm ăn huy hoàng Bàn ghế nay vắng bóng không người ngồi.

Câu chuyện kinh tế thoái hóa và thuế má tăng nhanh làm ảnh hưởng đến nhiều chủ nhân của những khu vườn trái cây sinh thái khiến tôi liên tưởng đến chuyện kinh tế của Hoa Kỳ. Dĩ nhiên, do vì nền kinh tế thoái hóa bắt đầu từ năm 2008, khiến du khách Mỹ & Âu Châu - nhất là Việt kiều - giảm đi rất nhiều trong việc du lịch về Việt-Nam. Đó là điều đương nhiên phải xẩy ra, khi không có công ăn việc làm thì tiền đâu mà đi chơi ? Điều ngạc nhiên bên Mỹ, là ít người biết về sự tương tự giữa hai nền kinh tế khủng hoảng xẩy ra trong khoảng thời gian (1920-1933) và hiện tại (2008-201?). Vào khoảng năm 1920 đến 1933, nước Mỹ không những đã xẩy ra hai hiện tượng: một gọi là Thời Kỳ Nghiêm Cấm (Prohibition) và đồng thời chuyện Khủng Hoảng Kinh Tế (Great Depression - 1929) xẩy ra trong cùng khoảng thời gian. Ban đầu chính phủ Hoa Kỳ cấm tuyệt đối chuyện mua bán, tàng trữ và sử dụng tất cả các loại rượu mạnh, nhưng khi kinh tế đang chìm dần vào tuyệt vọng và nghèo đói, do đó - để kiếm thêm tiền thuế thu nhập được do chuyện tự do buôn bán rượu - chính phủ không còn cấm như trước; vả lại để người dân có rượu để tự giải sầu, quên đi những hoàn cảnh khó khăn và cuộc sống ngày càng di dần vào tuyệt vọng, bớt nghĩ chuyện xuống đường, bạo động chống chính phủ bất tài. Coi như một mũi tên bắn được cả hai con chim. Do đó, từ năm 1933 trở đi, dân Mỹ tha hồ mua bán, uống rượu thả cửa. Ngày nay, chẳng khác gì thời Nghiêm Cấm (Prohibition), trước đây ai lỡ dại bị bắt về tội sử dụng cần sa, ma túy thì coi như đời người đó tiêu tùng, vì hình phạt & tù tội rất nặng. Sau cuộc khủng hoảng bong bóng Cổ Phần Chứng khoán vào năm 2001, người ta đã bắt đầu kêu gọi bãi bỏ chuyện cấm sử dụng cần sa (ma túy vẫn còn bị trừng phạt hình sự), cho phép những thương gia, đại lý đã được chính phủ cấp giấy phép bán cần sa cho người tiêu thụ. Đến nay thì coi như hơn 70% tiểu bang đã được phép bán cần sa, một số ít còn lại sớm muộn gì cũng Ok tuốt, miễn là thu thập được nhiều tiền thuế, và hóa giải - loại bỏ được một số người - đỡ phải còn sợ rằng họ sẽ xuống đường bạo động, quá khích phản đối, chống chính phủ về những chuyện quan trọng khác. Đúng là lịch sử thường hay lập lại, như câu nói bất hủ của David Hannum -(There's a sucker born every minute), mỗi phút lại có thêm một kẻ khờ khạo ra đời. Tôi khờ khạo tin vào lời thằng em, tưởng nó biết rành đường đi nước bước. Nó cũng khờ khạo tưởng lầm, là đời chẳng gì thay đổi, hoặc không ngờ rằng cuộc đời ngày càng nhiều thay đổi, mà thay đổi một cách nhanh dần đều. Đúng ra, ai sinh ra trong cõi đời này - tất cả đều là những kẻ khờ khạo, không khờ vì điều này thì cũng vấp phải điều nọ. Chả ai tránh né được.

Vài hình ảnh quen thuộc của các tỉnh ở miền tây nam bộ.

Quán cóc bên đường

Sông nước miền Nam - Vĩnh Long

Du thuyền

Buổi tối ở Vĩnh Long

Ngồi trong nhà hàng ăn nhìn ra ngoài, tôi chụp một tấm hình mà nếu thoáng nhìn, tôi đoán chắc hẳn sẽ có người tưởng một con đường phố nào đó ở bên Mỹ, với những bảng hiệu nào là iPhone6 & iPad, tiệm bán hàng công nghệ điện tử Samsung, tiệm Children Smile bán áo quần thời trang cho những thiếu niên nam nữ ,v.v... Tôi thắc mắc về câu "đánh Mỹ cút, ngụy nhào" một thời thường được truyền tụng, ca ngợi - nay một sớm một chiều đã chóng được "Mỹ hóa" mà chẳng tốn một mũi tên, viên đạn, đến như văn hóa của một tỉnh nhỏ ở miền Tây còn phải bị "hũ hóa" như thế, huống gì là ở Sàigòn. Cuộc đời quả lắm chuyện chẳng ngờ, nay tốt mai bỗng trở thành xấu - hay ngược lại. Xưa kia bố bảo ai dám khoe khoang mình là người đồng tính. Nay thì không những chả sợ ai mà còn dám tự hào, hãnh diện "tôi là người đồng tính". Ai lỡ miệng chê bai mà bị báo chí biết được thì ít nhiều gì cũng bị thân bại, danh liệt vì dám khi dễ người đồng tính.

Sau một ngày lông bông chạy ngược chạy xuôi trên những ngã đường thôn quê của tỉnh Vĩnh Long, tối đến sau bữa ăn, mọi người rủ nhau ra bờ sông, bến tầu lớn nhất của tỉnh để uống nước, hóng gió - ngồi nói chuyện trời trăng mây nước cho đến khi cơn buồn ngủ kéo tới, lúc đó cả bọn mới chịu về phòng, tắm rửa rồi lăn quay ra ngủ.

Hôm sau, tôi rủ Huỳnh đi kiếm chỗ bán cơm Tấm, cơm Sườn Bì nướng để ăn sáng. Ở Việt-Nam sướng nhất là có đầy đủ hàng quán, món ăn các loại cho người ta chọn. Giá cả lại rẻ nữa. Ăn xong cả bọn rủ nhau đi xem những thắng cảnh, chùa chiền của người Khmer - nghe nói nhiều cái rất mỹ thuật, di tích của một thời huy hoàng xa xưa của một nền văn-minh Chàm đã bị suy tàn, xóa sổ. Trên đường đi, tôi thấy bên hương lộ thường có những quầy , những sạp bầy bán đủ loại trái cây trồng trong vườn, đem ra bán để kiếm thêm lợi tức. Nào là Chôm chôm, Nho, Soài, Sầu Riêng, Ổi, Mận, Chuối, Mít... đó là chưa thực sự đến mùa cây ăn trái, xẩy ra vào khoảng độ gần Tết Nguyên Đán, nghĩa là chỉ hơn 2 tháng nữa thôi, đi đến đâu bạn cũng sẽ thấy đầy rẫy những đặc sản từ vườn hái đem ra, nội chỉ nhìn không cũng đã con mắt chứ nói chi là mua với giá rẻ rề, ăn cho cành hông, cho tắt thở mà cũng chỉ vài trăm ngàn (vài chục đô la Mỹ). Không ai biết phía trước xe của Huỳnh, chở nguyên một trái Sầu Riêng nặng hơn 4 ký rưỡi. Trong cốp xe còn có hơn 2 ký Soài giống Thái Lan, hai nải chuối già, nửa trái Dưa Hấu...đang trả giá mua thêm 2 ký Chôm Chôm để trên đường vừa đi vừa ăn. Tưởng rằng sẽ được đi vào xem những thắng cảnh, chùa chiền của dân tộc Khờ-Me, ai dè trên đường đi thì ông trời dở quẻ bỗng đổ cơn mưa rào, và không biết bao giờ mới tạnh cơn mưa, sợ lỡ chuyến phà cuối cùng để quay lại tỉnh Bến Tre, hai anh em đành quyết định đi thẳng về Sàigòn; thêm một bài học nữa là nếu về Việt-Nam mà muốn đi bụi, đi phượt không bị mưa, thì nên ráng đợi sau tháng 11 - nhưng chắc ăn hơn là giữa tháng 12 trở đi thì tha hồ , cho đến khoảng tháng 7 là mùa mưa, mùa nước lũ chuẩn bị bắt đầu. Thời may là lúc về đến Bến Tre thì trời tạnh mưa, dừng chân nghỉ cái lưng cũng không xa ngã ba Trung Lương, uống nước dừa rồi nhắm mắt độ chừng nửa tiếng xong hai anh em lại chở hai bà vợ, lên đường trực chỉ thành phố Sàigòn. Một chuyến đi tuy ngắn, nhưng có dịp để tôi với thằng em gần và hiểu nhau hơn, vì ở Mỹ đất rộng thênh thang, mỗi người ở một tiểu bang xa cách ngàn dậm, mà luôn luôn có những bận bịu, nhu cầu đỏi hỏi hay bị khuyến dụ - chẳng mấy ai có thì giờ cho nhau. Điều này khiến tôi bùi ngùi chạnh nghĩ đế một bài thơ của Cao Tần làm từ thời cuối thập niên 70s:

Mai Mốt Anh Về

Mai mốt anh về có thằng túm hỏi

Mầy qua bên Mỹ học được củ gì

Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi

Nói mầy hay ông thượng đẳng cu li

Ông rửa bát chì hơn bà nội trợ

Ông quét nhà sạch hơn em bé ngoan

Ngày ngày phóng xe như thằng phải gió

Đêm về nằm vùi nước mắt chứa chan

Nghệ thuật nói bỗng hóa trò lao động

Thằng nào nói nhiều thằng ấy tay to

Tiếng mẹ thường chỉ dùng chửi đổng

Hay những đêm sầu tí toáy làm thơ


Ông học được Mỹ đất trời bát ngát
Nhưng tình người nhỏ hơn que tăm
Nhiều đứa hồn nhiên giống bầy trẻ nít
Còn hồn ông: già cốc cỡ nghìn năm

Bài học lớn từ khi đến Mỹ

Là ngày đêm thương nhớ nước mênh mang

Thù hận bọn làm nước ông nghèo xí

Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông văng

Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa

Ông anh hùng ông cứu được quê hương

Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo

Lùa cả nước vào học tập yêu thương

Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp

Phản động gì cũng chỉ sống trăm năm

Bồ bịch hết không đứa nào là ngụy

Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng

(thơ Cao Tần)

Sau hơn 3 tháng sống trên quê hương và ở chung trong một cao ốc, hai anh em mới có dịp đi chơi và hàn huyên với nhau nhiều hơn cả bao nhiêu thập niên sống trên nước Mỹ cộng lại. Trong nhà có bốn anh em trai và bốn chị em gái, phe đàn ông thì ai cũng thích về Việt Nam; ngược lại - mấy chị em gái thì chẳng ai muốn về.

Không biết đó có phải là đa số phụ nữ có khuynh hướng vọng ngoại hơn đàn ông, hay đàn bà Việt-Nam đã sợ, đã ớn cái gọi là thói "gia trưởng" của dân Á Đông, nhất là đàn ông Việt. Đứa em vợ của tôi sang Mỹ năm 1990, sau hơn 15 năm nó nhớ nhà, nhớ quê hương muốn về thăm nhưng cô vợ nhất định không cho đi một mình.

Tôi thường hay đùa mỗi khi gặp thằng em vợ, hỏi cu cậu rằng "Sao, bao giờ muốn vượt biên về VN đây ?" Hắn lắc đầu thở dài, vì cô vợ đã từng tuyên bố - bảo là nếu muốn thì cứ việc ly dị rồi hay đi. Vợ tôi kể lại chuyện tếu này cho người bạn, cô nàng bỗng đùng đùng nổi nóng, giận tôi là tại sao dám nói nàng ta (dữ tợn) như thế ! Hóa ra, chuyện đàn bà Việt không thích chồng mình về quê hương một mình quả là "universal" - đồng cảnh - giống nhau ghê gớm, cho dù họ không có một nghiệp đoàn, tổ chức nào để rỉ tai, tuyên truyền cho nhau điều cấm kỵ này.

Dĩ nhiên, những người không còn tình nghĩa vợ chồng với nhau (hắn đi hay không kệ thây cha hắn) - hoặc ở phía đối cực, tin tưởng hoàn toàn vào người chồng - thì chuyện họ muốn đi cũng chẳng có gì là quan trọng, đáng bận tâm (ngoài chuyện an toàn và sức khỏe của nhau).

Dù sao đi chăng nữa, mỗi người về Việt Nam - chẳng ai bảo ai - đều có mục đích riêng, nhưng đa số đàn ông thích trở về để tìm kiếm những điều mà họ không tìm thấy trong cuộc sống ở ngoại quốc. Đúng hay sai, khôn hay dại, thành hay bại - chẳng qua cũng hoàn toàn tùy thuộc vào định mệnh, vào số mạng của mỗi người, mà nói cho cùng câu "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã" hiếm khi thấy sai. Chuyến đi Vĩnh Long này cho tôi hiểu em mình thêm một chút, mà không ít người đã từng lên tiếng phán xét nhưng không hiểu tại sao Huỳnh làm những chuyện đã làm, vì nếu nó có những hiểu biết như ngày hôm nay cách đây hơn 30 năm về trước, chắc chắn nó đã có một lối sống, suy nghĩ khác hẳn. Người thường ai mà chả thế. Điều đó chứng tỏ là nhiều khi, cái dại dột, khiếm khuyết - cái không biết - của mình chẳng qua cũng chỉ là số mệnh, ông trời đã đặt như thế, biết làm sao hơn là nên cảm thông, sẵn sàng bên cạnh để khi em mình cần đến; nhưng cũng nên nhớ cái bài học trong chuyện ngụ ngôn "Con Ếch và con Bò Cạp", đừng để lòng nhân đạo, tánh thương người mù quáng của mình làm hại chính mình nhưng vẫn không thay đổi được kẻ khác.

Thôi kể chuyện, tán dóc dông dài như thế cũng quá đủ. Hẹn gặp lại chuyến viễn du kế tiếp.

12/20/2015


Xem nguyên bản

Về đầu trang


NÓI CHƠI HÓA THẬT

Trần Văn Sanh

Tối hôm qua hai vợ chồng được người bạn già mời đến dùng cơm. Gọi là bạn già vì hai bác tuổi cũng đã trên 80s, không có con cháu ở gần, nên thỉnh thoảng muốn hai vợ chồng tôi đến chơi để trò chuyện. Vừa đến nơi, bác trai vỗ vai tôi nói liền: "Đọc tuần trước bài viết ‘ĐÀN BÒ VÀO THÀNH PHỐ’ tưởng cậu nói chơi ai dè lại là thật. Vào đây, cậu phải kể tôi nghe thêm những ai cậu đã gặp, đã biết về những biến chuyển thế giới".

Tôi còn bỡ ngỡ, chưa hiểu bác trai nói về điều gì trong bài tạp luận, vì ít khi tôi để tâm, nhớ những gì mình đã viết, vì tội vạ gì phải nhớ, cần thì mở ra đọc lại - dễ ợt.

Sau khi rót cho tôi ly rượu mận, uống cho ấm bụng trước khi bữa cơm tối đang được bác gái và vợ tôi phụ một tay trong bếp, bác trai ngồi xuống sát bên cạnh - vì mắt bác bây giờ rất kém, không còn lái xe được từ lâu, tai cũng đang lãng dần. Bác bảo:

- Trong bài đó cậu viết là " dân Châu Âu hiện đang tìm về đầu tư đất đai, nhà cửa ở Đà Lạt, Đà Nẵng và Nha Trang, vì họ muốn ở bên này - rời khỏi nơi chốn mà họ cảm thấy sẽ không còn yên ổn trong những tháng năm sắp tới....". Tôi đọc và ngẫm nghĩ không biết chuyện gì mà người ngoại quốc lại lo lắng đến thế, thì ba, bốn hôm sau lại xẩy ra vụ thảm sát 12 người ở Ba-Lê hôm 8/1/2015, tôi mới giật mình chẳng ngờ tưởng cậu viết chơi ai dè chuyện lại sớm xẩy ra như thế!

- Thật ra, chuyện xẩy ra từ lâu rồi bác! ít nhất là bắt đầu từ năm 2005-2006 - và đó là chỉ riêng cho khối Âu Châu, còn gọi là EU, chứ nói chung cho cả thế giới thì phải nói bắt nguồn từ năm 2001.

- Thế lúc nói chuyện với họ, cậu có đồng ý về những điều lo sợ của họ không?

- Dạ có chứ, cháu biết cả trước khi về VN, tình cờ gặp những anh chàng tây ba lô ở SG, du khách Âu Châu ở Đà Lạt, cháu muốn hỏi để thăm dò, kiểm chứng những gì mình đã suy đoán. Vì chỉ nội trong vòng hai ba năm gần đây, nhiều chuyện xẩy ra đều theo một chiều hướng, hay đúng hơn là rập theo một khuôn mẫu (pattern) - tất cả chỉ vì muón bảo vệ giá trị của đồng đô la - kể cả cái biến cố Chín-Một Một.

- Cậu làm máu tò mò của tôi nổi lên. Sao loại rượu mận này ngon không? để tôi rót thêm chút nữa nhá? cậu phải kể rõ cho tôi những gì cậu đã đọc, đã biết mà cậu vì lý do đó mà muốn mua nhà, mua đất ở VN. Càng nghe tôi thấy càng hứng thú đấy...

- À, chuyện đó thì cháu sẽ kể cho bác sau, vì cũng có nhiều người ở VN thắc mắc là trong khi bao nhiêu người muốn thoát ra khỏi nước thì cháu lại đâm đầu muốn trở lại, còn bây giờ thì cháu có thể kể vài chuyện có thật, đã xẩy ra và báo chí đăng rùm beng trong thời gian qua, bắt đầu là những tin mới nhất:

1) Hôm 6 tháng Giêng năm nay, 2015 - Tổng Thống Pháp Francois Hollande tuyên bố là nên chấm dứt chuyện cấm vận nước Nga, mấy ngày sau thì vụ thảm sát xẩy ra ở Paris.


2) Ngày 5 Tháng 7, 2014 - Tổng Giám Đốc Christophe de Margerie phát biểu với báo chí rằng không nhất thiết phải dùng đô la để trao đổi mậu dịch, mua bán dầu hỏa. Ngày 21 tháng 10, 2014 chiếc máy bay chở ông này bị rớt và ông ta bị tử nạn.



3) Hơn 80 người bị thảm sát ở Oslo, Norway, sau khi Ngân Hàng Trung Ương của nước này từ chối không muốn "đầu tư" vào Ngân Hàng Trung Ương Luân Đôn - nhằm hổ trợ cho cái gọi là Quantitative Easing (QE) của Ngân Hàng Trung Ương Hoa Kỳ.


Tôi nói tiếp:

- Đó là chưa kể những vụ "tự tử" của 14 nhân viên cao cấp về tài chính, tiền tệ làm cho ngân hàng Pháp và hơn 22 vụ tự sát tương tự xẩy ra ở Âu Châu và ở Mỹ chỉ nội trong Tam Cá Nguyệt II (2nd quarter) năm 2014 vừa qua. Vụ Japan tsunami năm 2011; 2 trận cuồng phong liên tiếp ở Phi Luật Tân mà trong lịch sử nước này chưa hề xẩy ra. Tất cả đều liên quan, dính dáng đến đồng đô la - và hiện tại việc giá xăng dầu tụt trên 50% cũng chỉ nhằm quy tụ vào một mối. Tất cả mọi chuyện chỉ là trùng hợp hy hữu thôi ư?

Cũng có thể, nhưng bảo là một người trúng vé số độc đắc 3 lần liên tiếp thì quả là hiếm có.

Ngưng một chập, đợi cho bác trai kịp thấm những gì vừa nói, tôi bảo cho bác là đó chỉ là chuyện "nhỏ", rồi sẽ còn những chuyện tương tự nhưng quy mô hơn nữa sẽ xẩy ra trong năm nay và năm tới. Chẳng qua cũng chỉ vì "cùng tất biến", lịch sử đế quốc nói chung và lịch sử về tiền tệ nói riêng - cứ lập đi lập lại, chẳng có đế quốc hay tiền tệ nào tồn tại mãi cả; mà nghĩ về khía cạnh tốt thì cũng giống như những bà mẹ đang trên giường đau đẻ, qua những cơn đau quặn thắt sẽ xẩy ra và sau đó sẽ cho chào đời một thế hệ mới, một kỷ nguyên mới - coi như là "biến tất thông" có vậy thôi.

- Tôi phải mượn lại quyển Kinh Dịch của cậu để đọc, cho dù càng đọc thì thấy mình càng dốt, chả biết gì cả!

- Thôi bác ơi, đời mình còn là bao lâu để mà theo đuổi những triết thuyết xa xưa đó nữa bác, cháu cũng chả biết nó nằm đâu, trong thùng giấy nào đó ở nhà kho. Điều mà cháu nghĩ có lẽ nếu hai bác muốn về VN một chuyến, cháu sẽ là hướng dẫn viên và chắn chắn là bác sẽ vui lắm.

- Ối giời ơi, được thế thì còn gì bằng. Tôi muốn về đó thuê một căn nhà hai, ba tháng trốn cái lạnh ở đây, rồi từ đó mình sẽ đi bất cứ đâu. Tụi nhỏ thì chả có đứa nào làm được cả, ai cũng bận công ăn việc làm, mà tôi già mắt kém đi đâu cũng chỉ thêm gánh nặng cho bà nhà tôi, muốn lắm từ lâu nhưng không cách gì đi được, nay cậu rủ đi như thế tôi đồng ý cả hai tay.

Những câu chuyện sau đó ban đầu loanh quanh chuyện thời sự và về chuyến đi Việt-Nam của hai vợ chồng tôi vừa qua. Sau bữa ăn, trong lúc vợ tôi phụ giúp dọn bàn, rửa chén, tôi nói để trấn an hai bác, rằng thoáng đó mà đã hơn 80 năm trôi qua trong cuộc đời của hai người, mà biết bao nhiêu thăng trầm, đau khổ mà cả hai đã từng trải qua, rồi mai sau trong giây phút cũng chỉ là hư vô, như một vở tuồng ngắn chớm mở, sớm hạ mà - tất cả những gì xưa nay vốn tưởng là thật nay bỗng dưng chỉ như là một trò đùa, bởi vậy những gì tôi đã biết, đã kể lại cho bác cũng thế thôi - chơi hay thật cũng chỉ là một vở tuồng đời - không hơn không kém.

Về đầu trang


ÔNG CỤ NON

Trần Văn Sanh

Tôi không rõ là từ bao giờ, mình đã bị ai đặt cho cái danh hiệu là "ông cụ non" từ khi đã bắt đầu có trí nhớ, có lẽ khoảng tôi mới còn 9, 10 tuổi gì đó. À không, đúng ra là khoảng 6, 7 tuổi, lúc tôi còn ở Đà- Nẵng cùng với mấy cô, chú nhà ông bà ngoại. Sau này, cô Kim tố khổ với vợ tôi rằng, thư tình của mấy cô, cho dù dấu ở đâu cũng bị cái thằng quỷ xứ này lôi ra - nếu không hối lộ, cho quà thì nó đem méc với bà (ông ngoại tôi hiền khô, méc cũng chẳng có lợi lộc tí nào!). Cũng nhờ đó, khi cô Thủy, vì là con gái út cho nên nhà gọi là cô Xíu - đẹp nổi tiếng khu chợ Cồn - được một chú họa sĩ gần nhà theo tán, tôi trở thành cánh chim nhạn đưa thư tình qua lại cho hai người, và được chú họa-sĩ đó dậy vẽ, một năng khiếu mà sau này khiến tôi trở thành đam mê về môn nghệ thuật này.

Trong nhà tôi có một chị vú em và bà quản gia kiêm người bếp, người mà mẹ tôi giao chìa khóa nhà mỗi khi mẹ tôi ra đường lo chuyện làm ăn, buôn bán. Bà quản gia này - không có mặt ba mẹ - thường hay la mắng chị em tôi, nhưng luôn chịu thua không cãi lại với cái miệng lưỡi của một thằng nhóc thua bả cả hơn 20 chục năm, vì bà ấy chẳng có học hành gì cả. Bởi thế cho nên bà quản gia này phát minh ra một trò độc địa khác, là thỉnh thoảng đem dấu chùm chìa khóa cổng nhà rồi đổ thừa cho chị em tôi để lạc, để mất cho cả bọn bị la mắng, ăn đòn. Sau lần đầu tiên bị bà phù thủy chơi chiêu mới, từ đó về sau mỗi lần nghe nói chùm chìa khóa bị mất, trong lúc bà chị cả chỉ biết lo, rươm rưóm nưóc mắt khóc, nghĩ đến trận đòn bữa trước - và mấy đứa em thì teo hết vía. Tôi bình tĩnh ngồi ngẫm nghĩ một chập rồi bảo đứa đi kiếm chỗ này, đứa bắc ghế hay bắc thang tìm chỗ nọ. Quả nhiên, chả mấy chốc cũng tìm ra được chùm chìa khóa. Tôi nuôi một con vịt con lông vàng, cái mỏ vịt nhỏ xíu nhìn dễ thương hết nói. Vậy mà trong lúc tôi đi học, bà ấy ở nhà vặn cổ rồi vứt nó xuống cống rãnh. Thời gian sau, trong lúc chặt con gà luộc, vô ý làm sao mà bà này chặt trúng vào bàn tay trái, rồi tôi không nhớ vì sao mà mẹ tôi lại cho bà quản gia thôi việc mấy tháng sau.

Nghĩ lại, kể ra có lẽ tôi đã không biết sử dụng cái "thiên phú" của một “ông cụ non” ngày xưa, biết đâu sau này tôi trở thành một công-an phường hay thám tử thì thiên-hạ phải biết.

Lớn lên chút nữa, học chung lớp thường thì đa số bằng tuổi nhau, vài đứa ít tuổi hay lớn hơn tôi chừng một, hai tuổi. Vậy mà quen nhau chẳng bao lâu, đứa nào cũng coi tôi như một "đại huynh", mặc dù nhiều thằng to con, lớn hơn tôi cả cái đầu. Lên đại-học, có người còn gọi tôi là "cụ Tổng" nữa thì phải biết! Chung quy có lẽ vì cái tánh háu đá võ...mồm của tôi, cóc sợ ai, cóc ngán ai - không hiểu cứ hỏi, hỏi đến khi thầy, cô hay người lớn không trả lời được mới thôi. Mấy thằng tưởng tôi bạo mồm, bạo miệng cho nên chắc cũng thuộc loại...cô hồn hay sao nên mới kiêng nể như vậy. Năm học lớp 11, trong lúc ba thằng ngồi trong quán cà phê đấu láo về chuyện nếu sang năm thi rớt tú tài thì đời trai sẽ ra sao. Cách xa hai, ba bàn là một nàng có mái tóc dài ngồi một mình, mặt buồn thiu như cơm nguội. Hai thằng bạn thách thức, tôi sách ly cà phê sang bàn bên đó gợi chuyện:

- Xin lỗi, cô cho phép tôi được nói một câu, sau đó nếu không muốn nghe nữa thì tôi sẽ không làm phiền cô...

-...

- Hai đứa bạn vừa mới cá độ rằng cô sẽ đuổi tôi như hủi, không được trò chuyện đến quá một câu. Nếu tôi thua, tôi phải trả tiền cho cả bọn, không thì chúng nó sẽ trả cho cả tôi lẫn cô.

- Bộ mấy anh hết chuyện đùa rồi hả? Giọng nàng hơi giận dữ.

- Thật tình, đối với tôi đó không phải là nguyên do, tôi thấy cô có vẻ buồn, ngồi một mình nên hy vọng góp chuyện với cô được dăm ba phút cho khuây khỏa rồi ai về nhà nấy, có thế thôi.

*** Kết quả là hai thằng bạn phải trả tiền cà phê cho cả hai bàn - phục "ông cụ non" sát đất, còn tôi sau tối hôm đó biết được nàng là SV năm thứ nhất ở Khoa-Học, lớn hơn tôi gần ba tuổi - quen nhau hơn nửa năm thì bản tánh lơ tơ mơ cố hữu của tôi trỗi dậy, tôi từ từ rút lui, biệt tích sau khi đi bụi đời một thời gian. Tôi còn có một thằng bạn học cùng lớp ở Nguyễn Bá Tòng, cháu của một ông tướng Không-Quân, anh cả nó tên Đông mà sau này tôi lại chơi thân với ổng hơn nó. Chị của nó tên Đào - hơn tôi hai tuổi (gái hơn hai, trai hơn một) - có lúc bưng trà cho ông anh ngồi uống chuyện trò với tôi về chuyện chính trị, tôn giáo và triết lý, thỉnh thoảng nhìn rồi cười và nói: "Trông S. cứ như là một ông cụ non. Ai mà ngờ". Sau này, khi nhà tôi mở quán cà phê, mỗi tối lúc sắp sửa đến giờ đóng cửa, tôi thường hay gài cuộn băng tự mình chọn từng bài rồi thâu lấy, mở ra và xuống ngồi uống cà phê vừa nghe những bản nhạc cổ-điển. Cả nhà mỗi lần nghe nhạc tôi mở, tôi dư biết có ai đó sẽ khúc khích cười "Đã tới giờ của ông cụ non, dọn dẹp quán dần là vừa." *** Trong đời, tôi gặp rất nhiều "ông cụ non", từ một đứa bé chưa biết đi cho đến những thằng nhóc chưa quá tuổi hai mươi, nhưng có lẽ tôi chưa bao giờ xúc động bằng hình ảnh của một thằng bé mới 11 tháng - đã là một "ông cụ non". Cách đây hơn sáu năm, trong một vườn trẻ có một thằng bé tên Tim mới chập chững biết đứng. Một hôm tôi thấy nó bò lại gần cái vừa là xe vừa là cái ghế, trong đó có một thằng nhóc khác cỡ 7, 8 tháng đang khóc nhè. Thằng Tim từ xa bò tới và dựa vào cái xe đứng lên, rồi với cử chỉ như muốn dỗ dành thằng bé đang khóc bằng cách lấy cái núm vú của thằng bé và đút vào miệng cho nó khỏi khóc. Thằng bé con kia không nín mà còn lại kéo cái núm vú ra để khóc tiếp. Thằng Tim lại nhặt cái núm vú lên đưa cho thằng nhóc con kia nhưng cũng bị nó ném đi chỗ khác. Cứ như thế sự việc xẩy ra đến lần thứ ba thì cái núm vú bị vất ra phía sau, thằng Tim không thấy cái núm vú đâu nữa mà bạn mình vẫn khóc tỉ tê. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy thằng Tim lấy cái núm vú yêu quý của nó và đút vào miệng thằng đang khóc. Một thằng bé mới 11 tháng đã biết thương bạn và dỗ bạn đã là một chuyện hiếm có, nó còn biết hy sinh cho bạn nó cái mà nó yêu thích nhất mỗi khi thiếu vắng mẹ. Tôi thấy, thằng bé tên Tim này quả đã có một tâm hồn rất "cụ non", một linh hồn già trước tuổi. Thỉmnh thoảng có việc ghé ngang khu vườn trẻ này, hỏi thăm mấy cô giáo thì thằng Tim này rất chững chạc nhất trong lớp, biết tự lo lấy thân mà ít khi làm phiền người lớn, ngược lại có khi mấy cô giáo còn ngán Tim, để nó muốn làm gì thì làm, miễn là không phá quấy trong lớp.

Cũng nhờ tìm ra được cái chân lý của thuyết luân-hồi, tại sao tôi lại là một "ông cụ non", nó giải thích cho tôi được thế nào là tình yêu, là sự công bình của thượng-đế chứ không phải thượng-đế bất công như nhiều người thường oán than. Nếu ai đã từng xem cuốn phim "The groundhog Day" - phim mà theo tôi nghĩ - là một cuốn phim gần như hay nhất đã diễn dịch được thế nào là kiếp luân-hồi, mà riêng tôi, sự hiểu biết bắt đầu từ lúc tôi mới có đứa con trai đầu lòng, khi nó hơn 3 tuổi, tôi mua cho cái xe ba bánh, dặn nó đừng lái xe xuống đường, nguy hiểm. Nhưng con nít mà, nhất là con trai - càng nói nó lại càng tò mò muốn thử, phóng ra đường và bị tôi tóm lại và nhéo tai vài lần. Đến một lúc tôi thầm nghĩ:

"Giá mà mình có cái quyền năng làm cho nó sống lại, tôi sẽ để cho nó bị xe cán một lần cho biết đời đá vàng.". Nghĩ đến đấy, tôi liền hiểu ngay rằng chỉ thượng-đế mới có cái quyền năng đó, và để chiều ý con người, cho con người tự rút kinh nghiệm, trải qua những bài học trong cuộc đời này và cứ thế qua bao nhiêu kiếp khác cho đến khi chúng ta biết cuộc đời quanh quẩn chỉ bấy nhiêu - rồi như câu chuyện chiếc áo rách - ai nấy đều sẽ trở về với thượng đế khi chúng ta không còn những khát khao, thèm muốn ở đời này. Từ đó, tôi không nghĩ ngay chính Beethoven, Mozartz, Picasso, hay Einstein... chả có quái gì gọi là giỏi dang hoặc thiên tài gì ráo. Tôi mà ở lại lớp 12 chừng mười, hai mươi lần thử xem, bạn học cùng lớp mà ngay chính thầy, cô - nếu chẳng cho rằng tôi là một "thiên tài", thầy chưa nói hết câu đã biết thầy định nói cái gì, chưa học đã biết mười...Nếu tôi có khát vọng muốn trở thành một nhà văn, một nhạc sĩ, ca sĩ, v.v.. nổi tiếng, chuyện đó không khó, cứ trở lại miết rồi sẽ được - nhưng rồi cũng chỉ là hư vô, cuối đời rồi cũng phải lo lắng tìm chốn để dưỡng lão, chỗ để nằm xuống.

Bởi thế, đã lỡ mang tiếng là một ông cụ non từ ngàn xưa, tôi sẽ "chơi" cho hết cuộc đời này, sẽ thọt lét thiên-hạ tới bến, ai giận hờn ráng chịu....LOL

Về đầu trang


PHẠT BẮC, BÌNH NAM

Trần Văn Sanh

Ai về xứ Bắc ta đi với thăm lại non sông giống Lạc Hồng từ độ mang gươm đi mở cõi Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long (Huỳnh Văn Nghệ) Câu cuối cùng, ban đầu tác giả dùng chữ "Trời Nam", nhưng không hiểu lý do gì cho nên đã đổi ra thành "Nghìn năm" mà có lẽ đúng hơn và hay hơn - vì nó khôngcòn giới hạn nơi chốn, chẳng phải chỉ có ở trời Nam mới nhớ về phương Bắc, mà còn ở bất cứ không gian (nơi) nào, thời gian nào.

Năm ngoái trong một chuyến đi thăm các tỉnh & thành phố ở miền Tây - An Giang, Cần Thơ, Châu Đốc, Bến Tre; trên đường đi tôi quen với một cặp vợ chồng ở Canada về. Đi chơi chung mấy ngày nên trở thành thân thiết, qua lại gửi email kể chuyện về chuyến đã qua. Thắng, tên người chồng - tháng trước hẹn rủ tôi chuyến về tới sẽ ra Bắc. Lúc đọc email của Thắng, trong đầu tôi lan man nghĩ về sử Việt, thời của vua Quang Trung, đã không những dành lại độc lập cho đất nước - mà còn dám đem quân chinh phạt kẻ xâm lấn. Bởi vậy tôi gửi email cho Thắng với cái tựa "PHẠT BẮC, BÌNH NAM", dùng những danh từ, ngôn ngữ thật lộng ngôn & ngông cuồng, tưởng tượng ví mình như Nguyễn Huệ thuở nào, và trả lời rằng ừ hai anh em sẽ ra Bắc - nhất là nếu có dịp về Ninh Bình, Phát Diệm - thăm lại mồ mả của ông bà nội,hai người đã sớm mất khi bố tôi vẫn còn là một thanh niên chưa đầy 20 tuổi. Sau đó nếu còn thời gian và hứng thú, sẽ làm một chuyến "Bình Nam" đến các tỉnh lỵ khác của miền Tây mà mình chưa đặt chân đến.

Tấm ảnh trên đã được Photoshop, ghép lại từ hai tấm hình - cái khung cửa bên trong khu tường thành Hoa Lư thời Đinh Bộ Lĩnh trên đường vào động Tam Cốc, và tấm thứ hai chụp từ trên đình núi Hải-Vân nhìn về hướng Nam, nơi bắt đầu mở rộng bờ cõi, cuộc nam tiến của Việt-Nam sau này.

Trong lúc đi thăm các di tích lịch sử của người xưa, khi Châu Âu còn mờ đắm thời trong trung cổ, dân chúng sống theo lối bộ tộc, thì Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp tan loạn Thập Nhị Xứ Quân, đem giang sơn về một mối. Năm 979, loạn quan Đỗ Thích ám sát Đinh Liễn, con trưởng của Đinh Tiên Hoàng, giết luôn cả Đinh Tiên Hoàng, toan đưa Đinh Vệ lúc đó mới 6 tuổi lên làm vua để dễ bề thao túng. Quan cận thần nhanh chóng chém đầu Đỗ Thích để dẹp loạn. Phương Bắc đã không bỏ lỡ cơ hội đem quân đến biên giới, định thôn tính nước Nam trong lúc lòng dân đang hoang mang, loạn thần chưa biết còn hay hết.

Lúc ấy, Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn - tức Lê Đại Hành - điều quân đi chống trả. Giữa lúc giặc đông quân và thế mạnh như chẻ tre, lòng dân hoang mang vì ấu chúa Đinh Vệ còn quá trẻ, Thái Hậu Dương Vân Nga - sau khi đã bàn bạc với các đại thần, và vì lẽ tồn vong của dân tộc, bà đem áo Long Bào của ấu chúa, dâng cho ngài đại tướng Lê Đại Hành.

Triều đại nhà Đinh chấm dứt sau 12 năm và nhà tiền Lê khởi đầu, với chiến thắng tại Ôn Châu, Lạng Sơn - chém đầu đại tướng nhà Tống là Hầu Nhân Bạ. Chẳng biết tin đồn hư hay thật, rằng Thái Hậu Dương Vân Nga có tư thông với Lê Đại hành- nhưng dù gì đi chăng nữa, hành động vì dân tộc, vì nước mà quên đi cái ngôi vị không thế nào được giữ mãi. Thái Hậu Dương Vân Nga - nếu quả thật thì xứng đáng trong sử sách hơn cả hai chị em Trưng, Triệu - gương sáng cho cho bao nhiêu thế hệ sau.

nơi giòng máu của Trần H. Logan đã khởi nguồn.

Tôi ra chào đời ở miền Bắc, ngay trung tâm của 36 Phố Phường ở Hà-Nội, được vài tháng thì gia đình phải di cư vào Nam. Chứ nếu chỉ tạm lánh, dọn về Ninh Bình chẳng hạn, nơi quê cha đất tổ của bố tôi, thì phải dung danh từ "tản cư" mới đúng. Trong thời Pháp thuộc và gữa cuộc chiến dành độc lập, mẹ kể gia đình ông bà ngoại đã phải tản cư rồi hồi cư mấy bận để tránh bom đạn.

Chính vì sinh ra nhưng không từng lớn lên ở xứ Bắc cho nên tôi không có chút kỷ niệm nào để thương nhớ, để lưu luyến về Hà-Nội, nhất là sau này tôi càng ngày càng nghe nhiều về chuyện dân "Hà Lội" bây giờ hỗn và hung dữ như gấu. Nghe chỉ thêm buồn, nhưng đó là điều không tránh được khi những con người của Hà Nội xưa hơn 1/2 đã qua đời, đã bỏ mình trong thời chiến tranh, số 1/4 còn lại cũng đã bỏ ra đi tứ xứ, nhiều nhất là vào Nam.

Khi đất trống, bỏ ngỏ thì thú hoang thường hay lân la tìm về lập bầy, làm tổ - người nào dám ở lại thì cũng chẳng là bao - giống như lăn lộn với sỏi đá mãi thì bàn tay cũng chai lỳ - sống va chạm với đám người tứ xứ, hỗn tạp ấy thì con người cũng dễ trở thành lỳ lợm, nhiễm cái thói kém văn hóa mà họ bây giờ cho là "vô tư", bình thường. Bởi vậy bây giờ hễ ai nói chuyện du lịch ra Bắc, dân miền Nam nhiều người cũng phải lẽ lưỡi, nhại câu cuối trong bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ "Bây giờ sợ lắm đất Thăng Long!".

Sau năm 2005, tuy đã từng đi từ Nam ra Bắc đã 3 lần, không biết rằng mình sẽ có cơ hội để làm thêm một chuyến "phạt Bắc" như ý mong muốn, nhưng có một điều tôi hy vọng là trước khi sức khỏe không còn cho phép. Ít nhất cũng phải về thăm xứ Bắc them một lần nữa, chứ không khéo thì mình lại mãi mãi "Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long", luyến tiếc hoài những hình ảnh, âm vang về những con người đã vốn có "nghìn năm văn hiến" trong dòng máu, trong văn hóa như những người Hà Nội xa xưa cũ.

Xưa người ta thường hay tấm tắc nói về "trai Hà Nội, gái Hà Nội" đã thanh lịch, sang đẹp như thế nào, bây giờ nếu đề cập đến trai hay gái dân Hà-Nội, cả đến dân du khách ngoại quốc, ai nghe mà cũng thấy phát hãi, chạy dài - nếu không chạy luôn thẳng về nước của họ.

Ngẫm đâm lại thấy buồn cho số phận dân tộc, mà có lẽ câu "từ độ mang gươm đi mở cõi", theo định luật nhân quả, không biết đó có phải là điềm báo ứng cho việc dùng gươm dáo để xóa sổ giống dân Chàm, và không biết bao nhiêu thế hệ mai sau cần phải trả cho cái việc mở cõi của cha ông. Thà đem "gươm" đi chém gió chơi khơi khơi như tôi và Sơn đen, coi bộ đỡ phải mang thù oán (tuy đôi khi có thể cũng làm cho thiên hạ bực mình vì đủ lý do), nhưng đời mà - chín người, mười ý. Chúa Jesus chưa hề đánh đập hay nói nặng ai mà còn bị đóng đinh trên cây thập giá thì nhằm nhò gì mình. Nói thế mà không chừng có người cho mình lộng ngôn, dám tự ví mình ngang hàng với Chúa. Đúng là miệng lưỡi không xương, thương thì trái ấu cũng tròn, ghét thì cỡ như Sơn đen cũng đâm trở thành ra...trắng nhách!

HAH!HAH!HAH!

ĐỜI!

SVT


Về đầu trang

QUÁ GIANG

Trần Văn Sanh

Sau giờ trưa tôi bỗng cảm thấy chán học, rời trưòng Văn-Học bỏ ra về lang thang qua con dốc chợ Ngọc Lan trên con đường về nhà. Lúc băng ngang qua bến xe đò, tình cờ nghe loáng thoáng một bà đang hỏi giá, kỳ kèo thuê một chiếc xe đò nhỏ để về Saigòn có việc gấp. Máu giang-hồ trong lòng bỗng nổi dậy, nghĩ bụng nếu bà ta bao được chuyến xe, tôi xin đi quá giang thì có lẽ bà ta không đến nỗi từ chối. Nghĩ thế, tôi mon men lại gần và nói vô dùm một đôi lời vì người quản-lý cũng như đa số tài-xế ở đây đều biết tôi là khách hàng quá quen thuộc. Rốt cuộc hai bên bằng lòng và bà ta hẹn sẽ trở lại trong nửa tiếng, sau khi về nhà lấy chút hành trang. Tôi cũng thế, ba chân bốn cẳng chạy ù về, qươ bậy bạ lấy một bộ đồ bỏ vào cái ba-lô thằng bạn đi lính đem về cho, bảo người nhà của thằng bạn là tôi dông về SG chơi ít bữa . Gặp lại bà ta ở bến xe, sau khi ngỏ đôi câu cảm ơn đã cho đi quá giang, tôi lịch-sự, biết điều leo lên ngồi ở băng ghế cuối cùng của chiếc xe đò nhỏ hiệu Peugeot 203 của hãng Minh-Trung, còn bà ta ngồi băng ghế ngay sau lưng tài-xế. Tưởng tượng chỉ sáu, bẩy giờ nữa là khung cảnh sẽ được thay đổi, gặp lại những bạn bè quen thuộc… tôi ngả lưng, dựa vào một góc và duỗi chân cho thoải mái, nhìn bên đường hai hàng thông chạy lùi nhanh dần phía sau. Khi không còn thấy bóng dáng hồ Xuân-Hương phía sau lưng, tôi làm quen hỏi thăm người bao thuê, cho mình quá giang chuyến xe:

- Thưa, có lẽ phải là việc gấp rút lắm cô ( thật ra đáng tuổi “bác”, tôi nhưng gọi thế cho có vẻ ga-lăng một chút!) mới đi vội vã như thế, vì đến nơi sớm lắm là cũng phải 8, 9 giờ tối.

Hình như câu hỏi của tôi đã dò được “đúng đài” hay sao, bà ta nghe thế bèn xổ bầu tâm sự ngay tại chỗ:

- Vội đâu mà vội, tôi nghe tin người nhà tôi gọi điện-thoại nói là gặp chồng tôi đi chơi với con nhỏ ca-ve nào ở Sàigon. Tôi đã nghi từ hồi hắn đi buôn về tuần trước mà miệng lưỡi hắn cứ chối leo lẻo. Phen này tôi phải xuống tận nơi bắt quả tang cho hết chối cãi. Đàn ông thật là tệ bạc!!! Thấy đương sự chưa chi đã vơ đũa cả nắm - có vẻ nóng giận, cay cú. Tôi chả dại gì muốn “chọc kít ra ngửi”, nên nói một cách châm chế, vuốt đuôi vài câu rồi tự động “khoá mõm”, ngồi một góc im thin thít . Ông tài-xế hình như cũng “thông cảm” điều đó nên cũng lẳng lặng, chăm chú lái xe, mặc cho người đàn bà đang nóng lòng đi đánh ghen kể lể chuyện gia đình, lải nhải bên tai phía sau lưng. Lúc xe bắt đầu xuống đèo Prenn, tôi bỗng thấy ông tài xế ngồi gác chân phải lên thành cửa – nghĩa là ông ta chỉ dùng chân trái để đạp thắng, đạp am-ba-ja (clutch) để sang số. Không biết ông ta muốn “biểu diễn” hay vì bực mình giọng nói lải nhải của bà hành khách ngồi phía sau. Chiếc xe lao nhanh xuống đèo, lạn qua, lạn lại một cách muốn chóng mặt. Kinh-nghiệm với nhiều tay tài-xế xe đò có máu bốc đồng, tốc kê, chớ bao giờ bảo hắn chạy chậm lại hay khuyên hắn chạy cẩn thận. Nói thế chỉ tổ làm người tài-xế thêm điên tiết hay dễ nổi khùng. Trong lúc tôi ngồi yên lặng. Người đàn bà ghen tương bắt đầu cảm thấy… teo và dịu giọng:

- Từ từ thôi bác tài. Tôi chả vội lắm đâu. Thủng thẳng rồi mình cũng đến nơi… Ông tài-xế chẳng thèm trả lời, vẫn im lặng, gài xe số không để chiếc xe phóng xuống đèo một cách ào ào, vùn vụt. Tay ôm vô-lăng, bẻ qua, bẻ lại cho xe ôm sát theo con đường đèo có lúc đạp thắng thập gấp khi chiếc xe gần như muốn va vào thành núi, hay lại một màn’..eeee…iie...keeétt… lúc như muốn bay thẳng xuống thung lũng, vực thẳm phía dưới. Bà hành khách mới đầu còn lịch sự, sợ mếch lòng ông tài xế nên nói năng vừa phải bảo ông lái chậm lại. Nào ngờ càng nói ông ta càng như điên tiết, lái một cách ngông cuồng hơn. Sẵn máu họan-thư cộng với máu buôn bán ngoài chợ. Bà ta bắt đầu đổi tông, trở giọng Bắc kỳ tru tréo:

- Này này…tôi nói ông lái nhanh vừa phải thôi đấy nhé. Muốn chết thì dừng xe lại mà nhẩy xuống vực, chứ đừng có giở quẻ với tôi!!!

- …..

Eeeeeét…kkeéet… Tiếng bánh xe nhấp thắng, lạng thật sát qua một bên đường để tránh chiếc xe vận tải chở gỗ đang ỳ ạch leo dốc. Chỉ gang tấc nữa là tai nạn đã xẩy ra.

- Ối giời ơi! Giê-su ma, lậy chúa tôi… thằng này nó muốn giết người...!!

Ông tài xế mặt vẫn lạnh như đá, chẳng thèm trả lời. Giây lát sau, tiếng bà họan-thư bắt đầu gào to hơn:

- Tổ cha mày! bà đi đánh ghen chứ bà có đào mồ cuốc mả nhà mày đâu mà mày tính giết bà… Đang từ cái danh xưng “tôi” trong giây phút bỗng trở thành chữ “bà”, và từ “ông” cho đến “thằng’, rồi “mày” … bà họan-thư la toáng, gào than, chửi rủa người tài xế. Lúc lên giọng, lúc xuống giọng, trầm bỗng nhưng không kém những danh-từ mầu mè, hơi thiếu thuần-phong mỹ-tục một chút xíu – chẳng hạn như: “cái thứ đồ đội váy”, “mặt trơ như cái…hĩm..”, hay “cái thằng … kia”, v.v… Còn tôi thì chỉ biết ngồi âm thầm đọc kinh… xám hối. Lậy trời nếu tránh khỏi chết thì cũng đừng bị teo …! Mặc cho hai người đôi co – một bên chửi bới, một bên thì lì lợm lái xe ẩu tả, bạt mạng.

Khi chuyến xe qua khỏi đèo Prenn và con đường đỡ ngoằn nghèo, không còn tuột dốc. Tôi bắt đầu thấy mình hoàn hồn trở lại, vội vàng khám cùng khắp “thi thể” coi có chỗ nào bị thương hay “mất mát” gì không. Thời may mọi “thứ” vẫn còn nguyên vẹn, chưa bị hề hấn. Còn bà họan-thư cũng thế, cũng hạ giọng, bớt nguyền rủa mặc dù miệng vẫn lẩm bẩm những câu gì chả ai nghe rõ. Chưa yên thân được bao lâu, không biết vì sợ mấy cây cầu bị lính địa-phương-quân đóng lại khi chiều xuống, hay cũng nóng lòng muốn về Sàigon cho thật nhanh. Ông nội tài xế bèn giơ cẳng đạp ga lút cán, phóng xe chạy tốc váy. Thế là bà họan-thư lại nổi máu tam bành lục lạc như trước:

- Đồ khốn nạn, bộ mày tính giết bà phải không?..

- … - Giời đất hàng xóm ơi! tôi có tội tình gì đâu mà gặp phải thằng chó đẻ này hả giời!!!

- … - … Về đến nơi bà sẽ bảo thằng tỉnh-trưởng rút bằng lái của mày… ối ối!! mày tình cán chết con bò của người ta hả, thằng khốn kiếp!!!..

- ….

Cứ như thế, sự việc diễn đi, diễn lại khi xe xuống đèo Bảo-Lộc, khi qua đèo Chuối. Đến Phương-Lâm, Định-Quán thì bà họan-thư bắt đầu mỏi mệt, khản giọng, nhưng chân tay vẫn quơ cào, xỉa xói thiếu điều mấy lần như xém bợp tai lão tài xế. Thấy từ đây đến Sàigon không còn phải qua một đọan đèo nào nữa, tôi thở phào, mừng thầm rằng mình… gần được thoát nạn. Mà “gần” thật. Chưa kịp mừng rỡ được bao lâu, tôi thấy xa xa trước mặt là một cây cầu. Bấy giờ đã hơn sáu giờ chiều, trời bắt đầu tối, xa lộ ở vào giờ này ít xe cộ và người lai vãng cho nên lính gác cầu thường hay kéo giây kẽm gai, đóng cầu và kéo nhau vô chòi hay lô-cốt ngồi nhậu. Tôi thấy hai, ba người lính cầm súng đang kéo đống kẽm gai ra gần giữa đường. Họ thấy chiếc xe đò nhỏ phóng như điên lọan nên vội vàng nhẩy qua bên lề, tức giận nổ súng lướt trên mui xe như để cảnh cáo. Tôi nghe họ chửi thề, văng tục um xùm. Bà họan-thư lại một phen được “kích thích” nên xổ nho, xổ tiếng Đan-Mạch (ĐM) liền tức thì. Lão tài-xế vẫn tỉnh khô coi lời nói như củ…khoai lang. Tôi thì có lẽ cạch đến già, định bụng sau này sẽ điều tra xem lão này là ai mà có hành động điên điên, khùng khùng như thế. Dù gì đi chăng nữa, tôi sẽ nhớ mặt lão suốt đời để về sau, trước khi mua vé, tôi phải hỏi kỹ mà tránh cái tình trạng gặp lại lão tài-xế này. Về Saigòn gần chín giờ tối, tôi nghe giọng của bà họan-thư đã hết còn “oai phong” như hồi mới bắt đầu xẩy ra cái “sự cố”.

Giọng bà ta bây giờ chỉ còn thều thào như kẻ khát nước, khản cổ sắp chết. Thế thì còn xí-quách mẹ gì nữa để đánh ghen! Tôi nghĩ bụng. Bà ta bước xuống xe, chân đi không vững, tay phải vịn vào thành cửa . Có lẽ tôi cũng quá… teo lúc ngồi trên xe hay sao nên không để ý đế cái mùi nước đái khai khai. Quần đen của bà hoạn-thư mặc bây giờ ướt đẫm, khai nghính. Có lẽ bà ta sợ quá…tè trên xe từ hồi nào tôi cũng không rõ!!!

Đó thật là một chuyến đi quá giang tuy không mất tiền nhưng quá ư là hào hứng ngoài mức tưởng tượng. Về sau điều tra ra thì mới biết, tên tài xế này ngày xưa có một thời là “khách” quen của dưỡngtrí-viện Biên-Hòa (nơi nhiều người ngồi cả ngày tay bắt chuồn chuồn, miệng cười hềnh hệch vô tội vạ, vô duyên, vô mục đích ). Hắn mới được xuất viện cách đó 5 năm, thỉnh thoảng hắn lạc vào cơn “mê” không cần biết chuyện gì xẩy ra xung quanh. Từ đó, tôi luôn luôn nhớ rõ mặt hắn và cái bảng số “GA-1952”, số của chiếc xe đò hãng Minh-Trung mà hắn thường hay lái.


Về đầu trang

RỒI KHI HẠ ĐẾN

Trần Văn Sanh

Chả mấy chốc mà hè đến và khoá học mùa xuân cũng sắp qua nhanh.

Nhanh đến nỗi, nhìn lại đống bài vở để ôn cho kỳ thi mà cảm thấy phát ngán. Bởi vì ngày thi gần kề và chỉ còn hơn vài tuần lễ nữa thôi, thế là được tự do. Tự do khỏi chiếc bàn cỏn con và ngọn đèn sáu mươi watt trong những đêm dài thức khuya dậy sớm. Không như những năm trước, khi nhiệt độ ngoài trời bắt đầu trở nóng và khoá học vừa chấm dứt, tôi có cái cảm giác nhẹ nhõm, thoải mái lúc được tạm rời bỏ sách vở, nghỉ ngơi vài tháng để rồi trở lại lớp học khi mùa thu đến. Hè mang lại cho tôi một cảm giác bồi hồi, buồn vui lẫn lộn. Bồi hồi vì tôi phải ra trường năm nay.

Phải lăn vào đời kiếm việc làm, kiếm sống và sẽ không còn được hưởng cái thú “đau thương” của thời cắp sách đi học. Dĩ nhiên, tôi vẫn có thể tiếp tục bậc cao học và tiến-sĩ, thạc-sĩ. Nhưng đến trình độ đó, tôi cảm thấy nó không còn mang ý nghĩa của một sinh-viên vừa học, vừa vẽ mộng yêu đời như thưở vàng son của thời trung-học và bốn năm đầu của đại-học. Hơn nữa, tuổi của tôi cũng “quá lứa”, với một vợ và hai con trên vai, tôi còn một gánh nặng gia-đình cần phải san sẻ. Bởi vì gần hơn hai năm qua, vợ tôi đã một tay xốc vác việc nhà cho tôi đỡ bận tâm, rảnh rang cho việc đèn sách. Bây giờ thành danh, tôi hy vọng sẽ có một việc làm để vợ con tôi được dễ thở, để bù đắp lại những ngày gian truân đã qua.

Ngoài cái buồn vì không còn được tiếp tục mài ghế nhà trường, tôi còn có cái buồn vì tình cảm bạn bè, chồng chất theo năm tháng để rồi ngày ra trường không biết mỗi người phải khăn gói đi về phương nào và đành gởi những cảm tình ấy cho bạn bè còn ở lại, những người rồi cũng sẽ ra đi, sẽ chìm dần vào cuộc sống bon chen, xa lạ như tôi trong những tháng ngày sắp tới chẳng hạn. Cuộc đời, nghĩ cho cùng bao nhiêu thứ mất đi đều có thể lấy lại được ngoại trừ thời gian. Thời gian là thứ chúng ta có lẽ đành bó tay để nhìn nó trôi qua từng phút, từng giờ, từng ngày… và một khi đã qua, nó chẳng bao giờ trở lại.

Tôi đi qua cầu sau lưng đã gẫy không còn trở lại tôi buồn từ đấy Thực tình, tôi chẳng lấy làm buồn khi biết rằng tuổi trẻ của mình đã qua và tuổi “xồn xồn” đang chờ đợi ở trước mặt. Có điều đáng buồn là tôi thấy cuộc đời chẳng dài lắm nhưng thử thách, chông gai và cạm bẫy thì vô tận.

Và sống chỉ để thấm thía những kinh-nghiệm “quý giá” đó rồi chết đi – thẳng cẳng – chẳng mang theo được gì! Biết vậy mà vẫn có nhiều người đâm đầu vao gian lao khó nhọc – như việc đi học chẳng hạn. Học bở hơi tai, học phờ râu ông cụ mà chưa chắc ra trường đã có công ăn việc làm như ý muốn. Tuy nhiên, những người đi học vẫn có cái hãnh diện là họ được thiên-phú trí thông minh, để thâu lượm kiến thức, để trau dồi tài năng hầu giúp ích cho xã-hội sau này. Có việc làm xứng đáng sau khi tốtnghiệp thì càng tốt. Không có thì cũng chả sao! Chỉ đau khổ như ai bị bịnh trĩ vài tháng rồi thôi. Rồi cũng sẽ có việc cả. Đời mà!

Tôi nhớ hồi còn nhỏ, hay nghe bọn con nít hàng xóm nghịch ngợm ca hát: “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ. Ngồi lưng trâu ta rờ mông trâu, rồi ta vuốt….” lung tung đủ thứ cả trong ấy. Hoàn cảnh của người sinh-viên ngoại quốc kiểu như rề-phu-dzi tôi đây, đi học cực như …chó í! Tay lần tự-điển Nguyễn Văn Khôn, tay lần tràng hạt để đánh trả lời những câu hỏi trắc-nghiệm. Vậy mà ông trời không chứng giám! khá lắm thì đậu trung bình, không thì tòng teng hoặc hẹn lại… khoá sau. Đùa thế thôi! chứ tôi hiểu hầu hết các sinh-viên ở đây đều chăm học và rất ư là thông-minh. Có người vừa đi học vừa đi làm như ca-ve hạng rệp. Ăn uống thì thôi, khỏi phải nói! Hết gói mì thì …mì gói. Kết quả là hễ ai “hợp nhãn” với mì thì sẽ mập như chú ba-tầu, không hạp thì gầy như sợi mì (mì nhúng nước đã phước, vì ít ra nó cũng đã được “nở nang” phần nào, không ốm cà tong cà teo như mì khô ). Tôi trộm nghĩ, sau mấy năm đại-học, ngoài bằng chuyên môn để ban phát, các Viện-trưởng cũng nên trao thưởng bằng “cử nhân mì gói” cho mấy bộ xương cách trí, mấy “thùng nước lèo” di động, để nói lên phần nào “công đức” của các đấng thanh-niên, thiếu-nữ đã đóng góp vào nền kinh-tế của Hongkong và Đài-Loan qua bốn năm dài ở đại-học. Rất may sau khoá này, tôi sẽ không còn ở trong tình trạng ăn mì gói “trường kỳ kháng chiến” , không còn những bài khảo-cứu về nhà làm, không còn những buổi phải đứng trên bục thuyết trình, tranh cãi, phân tách cho cái chủ thuyết về kinhtế, đầu tư…không còn những đêm dài vùi đầu trong thư-viện hay giây phút hồi hộp trước phòng thi – mà chỉ còn hồi hộp khi đi phỏng vấn tìm việc, và nếu không có việc thì lại…mì gói nghìn thu!

Tuy nói vậy, tôi vẫn hy vọng rằng các bạn đã tốt-nghiệp bậc trung-học và có ý định theo học đại-học, đừng có ngã lòng khi nghĩ đến sự khó khăn trong lúc còn đi học. Ngoài đời còn nhiều sự thử thách chông gai hơn mái ấm nhà trường bạn ạ. Nếu bạn chịu khó ráng học cao lên chút nữa, bạn sẽ thấy kiến thức giúp bạn vượt những khó khăn ngoài đời rất nhiều. Hơn thế nữa, học đại-học là một cơ hội để bạn quen biết thêm nhiều khuôn mặt mới – nhất là vào khoảng đầu mỗi khoá, khi “trai tài gái sắc” không hẹn mà đều “vô tình” thường hay tụ tập gặp nhau trong hành lang trước cửa văn phòng “Trợ giúp Tài chánh” để lãnh tiền “chùa”, tiền vay mượn chính-phủ.

Như một lần gặp tên da vàng mũi tẹt đang đứng chờ trước cửa phòng đợi được gọi tên, tôi bước lại gần niềm nở vui vẻ hỏi chuyện cho có:

- Hi. Tôi tên Sam, năm thứ tư. Bạn theo học phân-khoa nào?

- Thương-Mại! Hắn trả lời cộc lốc.

- Tôi cũng thế. Nhưng bạn chọn ngành gì?

- Financial-Aid!!!

- ….

Rồi hắn toe miệng nhăn răng ra nhìn tôi cười. Vậy đó mà hai thằng lại quen nhau suốt gần bốn năm, thay phiên mượn nhau mấy thùng mì gói trong lúc “xa cơ thất thế”, anh hùng đang chờ thời! Ngoài ra, nếu bạn mà theo nổi hết bậc đại-học, biết đâu sau này bạn sẽ trở thành cựu hội-viên HỘI MÌ GÓI như tôi và thằng bạn đó chẳng hạn. Cứ thử đi, đừng vội ngán ngẫm. Trên đời này thiếu gì loại mì để cho bạn thay đổi cho đỡ ngán: nào là mì con gà, mì Kung-fu, mì con tôm, con cua… và nhỡ bạn sợ mì gói sẽ “rút căn” cơ thể của bạn thì ra trường có “dóp” thơm, lương cao bạn dư sức và tha hồ “bình phương” hay luỹ thừa bộ ngực lép xẹp của bạn mấy hồi. Đời mà!
SVT 1982


Về đầu trang
Powered by SmugMug Owner Log In